Người phụ nữ tìm về nẻo Phật
Ngày đăng: 11:28:59 20-10-2016 . Xem: 9372
Người phụ nữ là hoa, khi hoa tìm về nẻo Phật là hoa đi tìm những giọt nước, giọt sương mai tưới tắm cho cánh mềm tươi thắm, cho đài bung nhụy ngát hương và trên dung nhan ngày lúc nào cũng rạng rỡ nở một đóa môi cười.
Người phụ nữ sinh ra trời phú cho một bản chất nhiều ưu điểm như nhu mì, dịu dàng, hiền thục, sức chịu đựng dẻo dai, chuộng hòa khí. Bên cạnh những ưu điểm họ cũng có nhiều khuyết điểm như nhạy cảm, dễ xúc động, dễ động lòng thương hay mau hờn giận, phẫn nộ, đố kỵ, ghen ghét...v..v...Những ưu và khuyết điểm này ngẫu nhiên cấu thành một thể chất đầy cảm tính mà người ta thường gọi là yếu đuối. Phái nữ không những bị xem là yếu đuối phần tinh thần mà phần cấu trúc vật lý cũng vậy. Hệ thần kinh yếu và mong manh nên dễ mất bình tĩnh và thiếu sự xử sự sáng suốt nếu gặp trường hợp quẫn bách, khó khăn, cùng khổ, người phụ nữ không đủ sức đối đầu và đảm đương.
Người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa chịu ảnh hưởng nền văn hóa Khổng, Mạnh đã thừa hưởng đức tính phục tòng (tam tòng, tứ đức) ăn sâu vào đầu óc nên trở thành thụ động. Khi gặp tai biến thiếu khả năng chống đỡ, họ phản ứng lại bằng cách tựa vào một sức mạnh nào đó hoặc cần một trợ lực tinh thần trong cơn phong ba bão táp. Khi bị phụ bạc, ruồng rẫy, thất tình, khủng hoảng tinh thần người phụ nữ thường tìm đến nương nhờ cửa Phật. Đạo Phật đến với người phụ nữ như một cứu tinh, một giải thoát nhiệm màu.
Do đó hễ thấy bất cứ một sư cô nào thấp thoáng ở thiền môn người ta lại thầm nghĩ “chắc thất tình đi tu” hoặc “chắc chán đời nên đi tu”.
Sự phỏng đoán này ngẫu nhiên biến thành lý do chính trong việc “đi “tu” của người phụ nữ Việt Nam hoặc đây là lý do chiếm đa số trong các lý do khiến người phụ nữ bước về nẻo đạo. Nếp nghĩ truyền thống này làm sai lạc hoặc mất đi ý nghĩa cao đẹp của những phụ nữ tìm đến đạo Phật bằng trí thông tuệ của sự hiểu đạo, cảm đạo và mến đạo. Tôi đã từng ghé thăm tu viện Lộc Uyển của thiền sư Nhất Hạnh, (một chi nhánh của Làng Mai bên Pháp) và thấy được rất nhiều sư cô cũng như nhiều thiếu nữ Việt Nam cũng như ngoại quốc trẻ đến tu học và thọ giới. Có điều tôi biết chắc là họ tìm đến đạo vì ham học đạo, thán phục phương pháp thiền định và mến mộ Đức Phật người chỉ lối cho họ vào con đường hạnh phúc, an lạc, chứ không phải vì thất tình đi tu. Tuy nhiên, người đến với đạo vì bất cứ mục đích nào đi trốn hay đi tìm, tiêu cực hay tích cực, cửa chùa lúc nào cũng rộng mở bất kể nam, nữ, nghèo, giàu, màu da, tôn giáo.
Đi sâu vào văn hóa dân gian, ta thấy truyện tình “Lan và Điệp” là một thí dụ điển hình cho sự phỏng đoán trên. Sau khi nghe tin Điệp lấy vợ, nhân vật nữ tên Lan đau đớn vì bị phụ tình, bỏ vào chùa tu. Khi hay tin này, Điệp tìm vào thăm. Sư cô Lan đã can đảm cắt đứt dây chuông như cắt đứt quá khứ, cắt đứt chữ si, hay đoạn tuyệt mối tình để yên tâm mà rảnh dạ tu hành.
Trong kho tàng văn học nước ta, một Thúy Kiều thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần minh chứng người nữ bước vào đạo như một giải thoát những khổ lụy vì tình. Chúng ta hầu như ai cũng đã đọc Truyện Kiều, không ai không biết đến “cái ghen Hoạn Thư”. Cái ghen mà Nguyễn Du mô tả khéo léo trong thơ ông, ghen hay đến nỗi tình địch là Thúy Kiều có miệng mà nói không nên lời, chết không được, sống cũng không xong và cuối cùng nàng chỉ còn một con đường giải thoát cuối cùng là trốn ra Quan Âm Các để “nhồi tâm hương” là xin Hoạn Thư cho nàng đi tu. Nguyễn Du đã để Hoạn Thư mở cho Thúy Kiều một lối thoát của khổ hạnh.
Thúy Kiều lo việc chuông mõ, chép kinh, nhồi tâm hương tức là tô bồi năm phấn hương của pháp thân.
Số phận chìm nổi của Kiều lại đưa nàng về nẻo Phật lần thứ hai khi nàng xui Từ Hải về hàng và bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa gả cho Thổ Quan. Kiều đã dứt nghiệp khi trầm mình ở sông Tiền Đường và được Giác Duyên vớt lên để bắt đầu một nghiệp khác ở Chiêu Âm Am với sư Giác Duyên:
Chú tiểu Lan, ni cô Trạc Tuyền hay bất cứ phụ nữ nào một khi đã quyết tâm xuống tóc xuất gia đều phải dọn lòng để bước vào con đường tu tập đầy chông gai thử thách. Con đường tu đạo, tứ đại giai không, thắng được chính mình không phải là một con đường hoa bướm dễ đi, ai cũng có thể đến được bến bờ an lạc. Đối với những người có tâm tìm đạo, việc tuân giữ các giới luật đã khó khăn khôn xiết, người đến với Pháp bằng con đường tựa đạo mà đi, sự việc còn gian nan thập phần. Nếu là xuất gia, thì tùy theo trình độ tu học, xuất gia lâu năm hay mới xuất gia mà phân biệt. Có 10 giới, dành cho người mới xuất gia (Sa Di và Sa Di Ni). 250 giới dành cho các bậc Tỳ Kheo đã xuất gia lâu năm, tối thiểu trên 10 năm và có trình độ thọ giới đầy đủ. 348 giới dành cho các bậc Tỳ Kheo Ni, tức nữ tu sĩ, xuất gia lâu năm. Ngoài ra còn có 48 giới Khinh và 10 giới Trọng dành cho các bậc thọ Bồ Tát Giới, xuất gia hay tại gia. Ở Làng Mai hay Tu Viện Lộc Uyển của Thầy Nhất Hạnh còn có 14 giới dành cho các phật tử đã quy y và đang chuẩn bị bước vào con đường xuất gia gọi là giới Tiếp Hiện.
Người phụ nữ Việt Nam ở hải ngoại ngày nay phải đương đầu với bao sự thay đổi từ việc chuyển đổi ngôn ngữ, địa vị, văn hóa, nếp sống cho đến môi trường xã hội. Sự đáp ứng của người nữ nhanh, nhạy hơn người nam nhưng khi vấp phải đau thương người nữ ngã đau hơn người nam. Gần đây tỷ lệ ly hôn của nhiều gia đình Việt Nam tăng cao, người nữ sống độc thân ngày càng nhiều.
Sự chán nản, đau khổ cũng như ngán ngẩm nhân tình thế thái càng khiến người phụ nữ tìm đến đạo như tìm sự an lạc, giải thoát cho tâm hồn ngày càng đông. Đạo đến với giới trẻ như một câu trả lời cho những ước ao tìm chân lý sống, những thao thức trong câu hỏi về đời sống tâm linh và ước nguyện lý tưởng giúp đời, cứu người. Người lớn tuổi trở về nẻo đạo mưu cầu sự thanh thản, hạnh phúc, thong dong, bình yên trong cuộc sống vật chất nhiều giả dối, xô bồ, xáo trộn và đầy áp lực. Hầu như tất cả các nguyên nhân gây ra khổ đau cho đời sống tâm linh con người đều là nguyên nhân đưa con người tìm về nẻo Phật. Người phụ nữ là hoa, khi hoa tìm về nẻo Phật là hoa đi tìm những giọt nước, giọt sương mai tưới tắm cho cánh mềm tươi thắm, cho đài bung nhụy ngát hương và trên dung nhan ngày lúc nào cũng rạng rỡ nở một đóa môi cười.
Người phụ nữ sinh ra trời phú cho một bản chất nhiều ưu điểm như nhu mì, dịu dàng, hiền thục, sức chịu đựng dẻo dai, chuộng hòa khí. Bên cạnh những ưu điểm họ cũng có nhiều khuyết điểm như nhạy cảm, dễ xúc động, dễ động lòng thương hay mau hờn giận, phẫn nộ, đố kỵ, ghen ghét...v..v...Những ưu và khuyết điểm này ngẫu nhiên cấu thành một thể chất đầy cảm tính mà người ta thường gọi là yếu đuối. Phái nữ không những bị xem là yếu đuối phần tinh thần mà phần cấu trúc vật lý cũng vậy. Hệ thần kinh yếu và mong manh nên dễ mất bình tĩnh và thiếu sự xử sự sáng suốt nếu gặp trường hợp quẫn bách, khó khăn, cùng khổ, người phụ nữ không đủ sức đối đầu và đảm đương.
Người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa chịu ảnh hưởng nền văn hóa Khổng, Mạnh đã thừa hưởng đức tính phục tòng (tam tòng, tứ đức) ăn sâu vào đầu óc nên trở thành thụ động. Khi gặp tai biến thiếu khả năng chống đỡ, họ phản ứng lại bằng cách tựa vào một sức mạnh nào đó hoặc cần một trợ lực tinh thần trong cơn phong ba bão táp. Khi bị phụ bạc, ruồng rẫy, thất tình, khủng hoảng tinh thần người phụ nữ thường tìm đến nương nhờ cửa Phật. Đạo Phật đến với người phụ nữ như một cứu tinh, một giải thoát nhiệm màu.
Do đó hễ thấy bất cứ một sư cô nào thấp thoáng ở thiền môn người ta lại thầm nghĩ “chắc thất tình đi tu” hoặc “chắc chán đời nên đi tu”.
Sự phỏng đoán này ngẫu nhiên biến thành lý do chính trong việc “đi “tu” của người phụ nữ Việt Nam hoặc đây là lý do chiếm đa số trong các lý do khiến người phụ nữ bước về nẻo đạo. Nếp nghĩ truyền thống này làm sai lạc hoặc mất đi ý nghĩa cao đẹp của những phụ nữ tìm đến đạo Phật bằng trí thông tuệ của sự hiểu đạo, cảm đạo và mến đạo. Tôi đã từng ghé thăm tu viện Lộc Uyển của thiền sư Nhất Hạnh, (một chi nhánh của Làng Mai bên Pháp) và thấy được rất nhiều sư cô cũng như nhiều thiếu nữ Việt Nam cũng như ngoại quốc trẻ đến tu học và thọ giới. Có điều tôi biết chắc là họ tìm đến đạo vì ham học đạo, thán phục phương pháp thiền định và mến mộ Đức Phật người chỉ lối cho họ vào con đường hạnh phúc, an lạc, chứ không phải vì thất tình đi tu. Tuy nhiên, người đến với đạo vì bất cứ mục đích nào đi trốn hay đi tìm, tiêu cực hay tích cực, cửa chùa lúc nào cũng rộng mở bất kể nam, nữ, nghèo, giàu, màu da, tôn giáo.
Đi sâu vào văn hóa dân gian, ta thấy truyện tình “Lan và Điệp” là một thí dụ điển hình cho sự phỏng đoán trên. Sau khi nghe tin Điệp lấy vợ, nhân vật nữ tên Lan đau đớn vì bị phụ tình, bỏ vào chùa tu. Khi hay tin này, Điệp tìm vào thăm. Sư cô Lan đã can đảm cắt đứt dây chuông như cắt đứt quá khứ, cắt đứt chữ si, hay đoạn tuyệt mối tình để yên tâm mà rảnh dạ tu hành.
Trong kho tàng văn học nước ta, một Thúy Kiều thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần minh chứng người nữ bước vào đạo như một giải thoát những khổ lụy vì tình. Chúng ta hầu như ai cũng đã đọc Truyện Kiều, không ai không biết đến “cái ghen Hoạn Thư”. Cái ghen mà Nguyễn Du mô tả khéo léo trong thơ ông, ghen hay đến nỗi tình địch là Thúy Kiều có miệng mà nói không nên lời, chết không được, sống cũng không xong và cuối cùng nàng chỉ còn một con đường giải thoát cuối cùng là trốn ra Quan Âm Các để “nhồi tâm hương” là xin Hoạn Thư cho nàng đi tu. Nguyễn Du đã để Hoạn Thư mở cho Thúy Kiều một lối thoát của khổ hạnh.
“Tam quy, ngũ giới cho nàng xuất gia”
Thúy Kiều lo việc chuông mõ, chép kinh, nhồi tâm hương tức là tô bồi năm phấn hương của pháp thân.
“Phật tiền thảm lấp sầu vùi
Ngày phô thủ tự, đêm nhồi tâm hương
Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng rưới tắt mọi đường trần duyên”
Ngày phô thủ tự, đêm nhồi tâm hương
Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng rưới tắt mọi đường trần duyên”
Số phận chìm nổi của Kiều lại đưa nàng về nẻo Phật lần thứ hai khi nàng xui Từ Hải về hàng và bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa gả cho Thổ Quan. Kiều đã dứt nghiệp khi trầm mình ở sông Tiền Đường và được Giác Duyên vớt lên để bắt đầu một nghiệp khác ở Chiêu Âm Am với sư Giác Duyên:
“Sớm khuya lá bối phiến mây
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương”
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương”
Chú tiểu Lan, ni cô Trạc Tuyền hay bất cứ phụ nữ nào một khi đã quyết tâm xuống tóc xuất gia đều phải dọn lòng để bước vào con đường tu tập đầy chông gai thử thách. Con đường tu đạo, tứ đại giai không, thắng được chính mình không phải là một con đường hoa bướm dễ đi, ai cũng có thể đến được bến bờ an lạc. Đối với những người có tâm tìm đạo, việc tuân giữ các giới luật đã khó khăn khôn xiết, người đến với Pháp bằng con đường tựa đạo mà đi, sự việc còn gian nan thập phần. Nếu là xuất gia, thì tùy theo trình độ tu học, xuất gia lâu năm hay mới xuất gia mà phân biệt. Có 10 giới, dành cho người mới xuất gia (Sa Di và Sa Di Ni). 250 giới dành cho các bậc Tỳ Kheo đã xuất gia lâu năm, tối thiểu trên 10 năm và có trình độ thọ giới đầy đủ. 348 giới dành cho các bậc Tỳ Kheo Ni, tức nữ tu sĩ, xuất gia lâu năm. Ngoài ra còn có 48 giới Khinh và 10 giới Trọng dành cho các bậc thọ Bồ Tát Giới, xuất gia hay tại gia. Ở Làng Mai hay Tu Viện Lộc Uyển của Thầy Nhất Hạnh còn có 14 giới dành cho các phật tử đã quy y và đang chuẩn bị bước vào con đường xuất gia gọi là giới Tiếp Hiện.
Người phụ nữ Việt Nam ở hải ngoại ngày nay phải đương đầu với bao sự thay đổi từ việc chuyển đổi ngôn ngữ, địa vị, văn hóa, nếp sống cho đến môi trường xã hội. Sự đáp ứng của người nữ nhanh, nhạy hơn người nam nhưng khi vấp phải đau thương người nữ ngã đau hơn người nam. Gần đây tỷ lệ ly hôn của nhiều gia đình Việt Nam tăng cao, người nữ sống độc thân ngày càng nhiều.
Sự chán nản, đau khổ cũng như ngán ngẩm nhân tình thế thái càng khiến người phụ nữ tìm đến đạo như tìm sự an lạc, giải thoát cho tâm hồn ngày càng đông. Đạo đến với giới trẻ như một câu trả lời cho những ước ao tìm chân lý sống, những thao thức trong câu hỏi về đời sống tâm linh và ước nguyện lý tưởng giúp đời, cứu người. Người lớn tuổi trở về nẻo đạo mưu cầu sự thanh thản, hạnh phúc, thong dong, bình yên trong cuộc sống vật chất nhiều giả dối, xô bồ, xáo trộn và đầy áp lực. Hầu như tất cả các nguyên nhân gây ra khổ đau cho đời sống tâm linh con người đều là nguyên nhân đưa con người tìm về nẻo Phật. Người phụ nữ là hoa, khi hoa tìm về nẻo Phật là hoa đi tìm những giọt nước, giọt sương mai tưới tắm cho cánh mềm tươi thắm, cho đài bung nhụy ngát hương và trên dung nhan ngày lúc nào cũng rạng rỡ nở một đóa môi cười.
Trích "Nẻo về đạo Phật của người phụ nữ Việt Nam" - Trịnh Thanh Thủy
Các Tin Khác