Văn hóa tự do xuyên suốt hành trình của nhân loại
Ngày đăng: 00:38:28 25-01-2015 . Xem: 1997
Tự do là mức độ, nhịp thở di dưỡng sáng tạo nên văn minh tiến hóa chung của loài người, trong đó có mọi nền văn hóa của mọi cộng đồng nhân loại. Mất tự do, nhịp thở sẽ gián đoạn, sửc sáng tạo sẽ đi đến kiệt quệ, ngưng đọng. Người làm văn hóa đúng nghĩa là biểu tuợng của sự thể hiện tự do. Dòng sinh mệnh của một dân tộc hay xa hơn là nhân loại sẽ bị đổ vỡ khi nhịp thở di dưỡng bị khô kiệt, bị ngăn đoạn vì bất cứ lý do gì. Văn hóa trước sau vẫn là cuộc tranh đấu cho thân phận con người, mà thân phận đó được xây dựng từ nền tảng ý thức tự do về sự hiện hữu, đồng thời phải biết kiến tạo và làm chủ lấy nếp sống chân thiện mỹ của mình.
Trên bước đường đi tìm chân lý, xã hội loài người trong qúa khứ đã xãy ra nhiều cuộc đổ vở như những cuộc thánh chiến ở bờ Địa Trung Hải, nối dài qua Hồng Hải tiếp cận nhau giữa ba đại lục Á, Phi, Âu. Hành trình chinh phục của đế quốc La Mã, đế quốc Mông Cổ v.v… và gần với lịch sử cận đại là đế quốc Tư bản Thực dân khởi dậy mạnh mẽ ở thế kỷ 18, kế đến là Quốc tế Cộng sản qua cao trào giải phóng các quốc gia thuộc địa ở thế kỳ 20. Trong tương lai chắc chắn sẽ còn tiếp diễn xảy ra những cuộc đổ vỡ khác khi chủng loại con người còn hiện diện nơi trái đất này. Để đối phó với tình trạng đổ vỡ, người làm văn hóa phải luôn tranh đấu cho thân phận con người trên tiến trình giải phóng khỏi những tù hảm tội lỗi. Con người bất cứ thời đại nào cũng luôn cần đến trí tuệ và lòng can đảm để có thể sống một cách tràn đầy tin yêu với những lý tuởng cao đẹp, và có thể dám dấn thân đến cả hy sinh mọi thứ để bảo vệ những giá trị cao đẹp cho cuộc đời đó mới chính là hoa trái gặt được về mặt tinh thần. Khổ đau và hạnh phúc luôn là bản chất gắn liền của cuộc đời nên ta phải luôn tìm cách hóa giải những khổ đau, bởi vì mầm hạnh phúc được nở hoa là do những khổ đau được hóa giải và nhờ thế hạnh phúc sẽ lớn hơn. Nếu chỉ biết chọn hạnh phúc mà quay lưng lại với những khổ đau của đồng loại thì hạnh phúc đó cũng chỉ là sự què quặt, vì hạnh phúc đó chỉ là sự ích kỷ, nghèo nàn về nội tâm, không thăng hoa được đời sống tinh thần.
Như đã nói hạnh phúc và khổ đau là bản chất của đời sống, nên người làm văn hóa phải luôn trực diện với những gì hiện hữu của đời sống, bởi đó là sự chân thành cần thiết trên bước đường tìm ra giải pháp chung nhằm vãn hồi những khủng hoảng có thể dẫn tới đổ vỡ toàn diện. Trực diện với đời sống có nghĩa là tìm con đường khai phóng mọi nền văn hóa, mọi trào lưu tư tưởng ngõ hầu không phải sống trong đình trệ, đổ vỡ mà ngược lại biết nương theo dòng tiến hóa chung của nhân loại cùng tiến về chân trời văn minh, nhân bản.
Ở thế kỷ 18 cao trào tìm thuộc địa trổi dậy mạnh mẽ, cùng với những mâu thuẩn quyền lợi kinh tế, chính trị, đã dẫn đến cuộc thế chiến thứ 2 kết thúc vào giữa thế kỷ 20, thế giới nhân loại đã phân chia thành 2 chân vạc, một bên đứng về phía Tư bản và một bên đứng về phía Cộng sản chống đối nhau qua cuộc chiến tranh lạnh. Không thời nào mà thế giới loài người lại hiện nguyên hình rõ rệt nhất bằng những thế kỷ cận đại vừa qua cũng như hiện tại chúng ta đang sống, nếu không xãy ra chiến tranh nóng thì cũng tranh chấp ý thức hệ, tranh chấp giữa giàu nghèo, văn minh và lạc hậu. Trong tương lai nếu nhân loại có xãy ra thêm một cuộc thế chiến khác thì đó chính là những tội lỗi, hung ác còn luôn tìm ẩn chất chứa trong lòng con người nên đến một lúc nào đó nó sẽ bộc phát ra ngoài gây nên tai họa chung cho cả nhân loại. Đó là bi kịch giữa Cain và Ebel giết hại nhau trong câu chuyện Thánh kinh, hay như Sơn tinh và Thủy tinh mù quáng trước tình yêu nên đã xô đẩy nhau đến thù hận, tranh chấp điêu linh.
Từ khi bản Tuyên ngôn Quốc tế Cộng sản ra đời 1848 đã kính động hân thù, đấu tranh giai cấp nơi một số đông người vô sản nghèo khó, các tổ chức Cộng sản luôn tuyên truyền, lên án tầng lớp tư sản và các chế độ Tư bản là tội ác, sa đọa và tha hóa con người. Thật ra các chế độ tư bản, thực dân đã có những thay đổi liên tục để tự tồn, nhất là sau thế chiến thứ 2, các xã hội dân sự được tự do phát triển mạnh. Các công đoàn khắp nơi đã lớn dậy, bảo vệ được quyền lợi cho giới công nhân một cách chính đáng và các chính phủ luôh có đối lập, đa đảng dể thực thi đầy đủ quyền tự do dân chủ, tạo cho xã hội có được sự tự do công bằng, quân bình phát triển về mọi mặt.
Các nước cộng sản thường coi những quốc gia nào không khép mình vào khuôn khổ đấu tranh theo đường lối Mác-Lênin đều là những quốc gia mang bộ mặt văn hóa của những xã hội phong kiến xưa cũ, mà 2 thế lực bảo vệ chặt chẻ nhất chính là chính quyền nhà nước tư bản và các giáo hội. Vì thế CS chủ trương phải đấu tranh cướp chính quyền bằng mọi gía để thiết lập chế độ độc tài toàn trị và xiết chặt gông kềm để lọi bỏ hẳn tôn giáo ra khỏi vai trò lãnh đạo tinh thần xã hội.
Trong một tương lai xa không biết rồi đây các tôn giáo lớn như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo hoặc các ý thức hệ tư tưởng như chủ nghĩa Cộng sản, các trào lưu tư tưởng hiện sinh ở thế giới Tự do, đến nổi bật nhất là Bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ra đời năm 1948. Tất cả các giáo lý đến những tư tưởng kể trên, nhân loại sẽ biết dung hòa, tổng hợp ra sao để có được những tinh hoa, cùng tin tưởng nhau, mà ta có thể tạm gọi đó là tư tưởng “đồng qui“, xây dựng được những nền tảng và tiêu chuẩn chân thiện mỹ chung trong tinh thần bình đẳng, liên đới và chia sẻ mọi trách nhiệm chung? Nhân sinh quan này sẽ mở ra một kỷ nguyên ý thức tự do, hòa bình và công lý.
Bài viết này, có thời giờ, tác giả sẽ đề cập thêm về Hồi giáo. Giữa giáo quyền và thế quyền là một sợi dây độc tài trói buộc không khác kiểu toàn trị như cộng sản: chỉ có một chân lý duy nhất được chấp nhận về tín ngưỡng, văn hóa và chính trị... Đó là sự lầm lạc không thể chấp nhận được, khi chính trị thuộc về thế quyền mà người sáng lập là " Tiên tri Mohammed" trên 15 thế kỷ qua đã xem tín ngưỡng thần quyền như những giải pháp chính trị, điều này có thể áp dụng tốt vào những thời kỳ bán khai, mê tín thần quyền của loài người dùng làm chủ đạo để đi chinh phục các bộ lạc rãi rác khắp các bán đảo Á Rập; nhưng với kỷ nguyên văn minh nhân loại ngày nay thì không thể nhập nhằn khóa chung gíáo quyền và thế quyền vào một mối.
Đúng như binh gia lừng danh Clausewitz từng đề cập trong sách Chiến Tranh Luận (Vom Kriege): "Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng những phương tiện khác". Nhưng chính trị hủ bại, lạc đường thế kỷ, phần đông ở các quốc gia Hồi gíao đang là những vấn nạn tang thương nhất cho thế giới nhân loại ngày nay.
Trên bước đường đi tìm chân lý, xã hội loài người trong qúa khứ đã xãy ra nhiều cuộc đổ vở như những cuộc thánh chiến ở bờ Địa Trung Hải, nối dài qua Hồng Hải tiếp cận nhau giữa ba đại lục Á, Phi, Âu. Hành trình chinh phục của đế quốc La Mã, đế quốc Mông Cổ v.v… và gần với lịch sử cận đại là đế quốc Tư bản Thực dân khởi dậy mạnh mẽ ở thế kỷ 18, kế đến là Quốc tế Cộng sản qua cao trào giải phóng các quốc gia thuộc địa ở thế kỳ 20. Trong tương lai chắc chắn sẽ còn tiếp diễn xảy ra những cuộc đổ vỡ khác khi chủng loại con người còn hiện diện nơi trái đất này. Để đối phó với tình trạng đổ vỡ, người làm văn hóa phải luôn tranh đấu cho thân phận con người trên tiến trình giải phóng khỏi những tù hảm tội lỗi. Con người bất cứ thời đại nào cũng luôn cần đến trí tuệ và lòng can đảm để có thể sống một cách tràn đầy tin yêu với những lý tuởng cao đẹp, và có thể dám dấn thân đến cả hy sinh mọi thứ để bảo vệ những giá trị cao đẹp cho cuộc đời đó mới chính là hoa trái gặt được về mặt tinh thần. Khổ đau và hạnh phúc luôn là bản chất gắn liền của cuộc đời nên ta phải luôn tìm cách hóa giải những khổ đau, bởi vì mầm hạnh phúc được nở hoa là do những khổ đau được hóa giải và nhờ thế hạnh phúc sẽ lớn hơn. Nếu chỉ biết chọn hạnh phúc mà quay lưng lại với những khổ đau của đồng loại thì hạnh phúc đó cũng chỉ là sự què quặt, vì hạnh phúc đó chỉ là sự ích kỷ, nghèo nàn về nội tâm, không thăng hoa được đời sống tinh thần.
Như đã nói hạnh phúc và khổ đau là bản chất của đời sống, nên người làm văn hóa phải luôn trực diện với những gì hiện hữu của đời sống, bởi đó là sự chân thành cần thiết trên bước đường tìm ra giải pháp chung nhằm vãn hồi những khủng hoảng có thể dẫn tới đổ vỡ toàn diện. Trực diện với đời sống có nghĩa là tìm con đường khai phóng mọi nền văn hóa, mọi trào lưu tư tưởng ngõ hầu không phải sống trong đình trệ, đổ vỡ mà ngược lại biết nương theo dòng tiến hóa chung của nhân loại cùng tiến về chân trời văn minh, nhân bản.
Ở thế kỷ 18 cao trào tìm thuộc địa trổi dậy mạnh mẽ, cùng với những mâu thuẩn quyền lợi kinh tế, chính trị, đã dẫn đến cuộc thế chiến thứ 2 kết thúc vào giữa thế kỷ 20, thế giới nhân loại đã phân chia thành 2 chân vạc, một bên đứng về phía Tư bản và một bên đứng về phía Cộng sản chống đối nhau qua cuộc chiến tranh lạnh. Không thời nào mà thế giới loài người lại hiện nguyên hình rõ rệt nhất bằng những thế kỷ cận đại vừa qua cũng như hiện tại chúng ta đang sống, nếu không xãy ra chiến tranh nóng thì cũng tranh chấp ý thức hệ, tranh chấp giữa giàu nghèo, văn minh và lạc hậu. Trong tương lai nếu nhân loại có xãy ra thêm một cuộc thế chiến khác thì đó chính là những tội lỗi, hung ác còn luôn tìm ẩn chất chứa trong lòng con người nên đến một lúc nào đó nó sẽ bộc phát ra ngoài gây nên tai họa chung cho cả nhân loại. Đó là bi kịch giữa Cain và Ebel giết hại nhau trong câu chuyện Thánh kinh, hay như Sơn tinh và Thủy tinh mù quáng trước tình yêu nên đã xô đẩy nhau đến thù hận, tranh chấp điêu linh.
Từ khi bản Tuyên ngôn Quốc tế Cộng sản ra đời 1848 đã kính động hân thù, đấu tranh giai cấp nơi một số đông người vô sản nghèo khó, các tổ chức Cộng sản luôn tuyên truyền, lên án tầng lớp tư sản và các chế độ Tư bản là tội ác, sa đọa và tha hóa con người. Thật ra các chế độ tư bản, thực dân đã có những thay đổi liên tục để tự tồn, nhất là sau thế chiến thứ 2, các xã hội dân sự được tự do phát triển mạnh. Các công đoàn khắp nơi đã lớn dậy, bảo vệ được quyền lợi cho giới công nhân một cách chính đáng và các chính phủ luôh có đối lập, đa đảng dể thực thi đầy đủ quyền tự do dân chủ, tạo cho xã hội có được sự tự do công bằng, quân bình phát triển về mọi mặt.
Các nước cộng sản thường coi những quốc gia nào không khép mình vào khuôn khổ đấu tranh theo đường lối Mác-Lênin đều là những quốc gia mang bộ mặt văn hóa của những xã hội phong kiến xưa cũ, mà 2 thế lực bảo vệ chặt chẻ nhất chính là chính quyền nhà nước tư bản và các giáo hội. Vì thế CS chủ trương phải đấu tranh cướp chính quyền bằng mọi gía để thiết lập chế độ độc tài toàn trị và xiết chặt gông kềm để lọi bỏ hẳn tôn giáo ra khỏi vai trò lãnh đạo tinh thần xã hội.
Trong một tương lai xa không biết rồi đây các tôn giáo lớn như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo hoặc các ý thức hệ tư tưởng như chủ nghĩa Cộng sản, các trào lưu tư tưởng hiện sinh ở thế giới Tự do, đến nổi bật nhất là Bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ra đời năm 1948. Tất cả các giáo lý đến những tư tưởng kể trên, nhân loại sẽ biết dung hòa, tổng hợp ra sao để có được những tinh hoa, cùng tin tưởng nhau, mà ta có thể tạm gọi đó là tư tưởng “đồng qui“, xây dựng được những nền tảng và tiêu chuẩn chân thiện mỹ chung trong tinh thần bình đẳng, liên đới và chia sẻ mọi trách nhiệm chung? Nhân sinh quan này sẽ mở ra một kỷ nguyên ý thức tự do, hòa bình và công lý.
* * * * *
Những bìến động bạo loạn triền miên đang xảy ra trong các quốc gia Hồi giáo, cùng với những khủng bố cúa các phần tử cực đoan đang nhắm vào các nước Tây Phương; điển hình là vụ tấn công vào quyền tự do ngôn luận nơi tòa soạn báo Charlie Hebdo tại Paris vào ngày 7 tháng 1 vừa qua, đã làm thế giới tự do Phuơng Tây phẫn nộ, mọi nhà lãnh đạo lẫn chính khách đều đã hướng về Paris, lên tiếng bênh vực cho quyền tự do ngôn luận, nền tảng đệ tứ quyền, bất phân ly bên cạnh lập pháp, tư pháp và hành pháp, thiết lập nên thể chế chính trị tự do và dân chủ ngày nay. Tất cả đều đã đồng tâm chia sẻ trách nhiệm: "Je suis Charlie", dù chìm hay nổi thì mọi chính khách Phương Tây chắc chắn sẽ quyết liệt bảo vệ nền tự do dân chủ phổ cập chung của nhân loại ngày nay.Bài viết này, có thời giờ, tác giả sẽ đề cập thêm về Hồi giáo. Giữa giáo quyền và thế quyền là một sợi dây độc tài trói buộc không khác kiểu toàn trị như cộng sản: chỉ có một chân lý duy nhất được chấp nhận về tín ngưỡng, văn hóa và chính trị... Đó là sự lầm lạc không thể chấp nhận được, khi chính trị thuộc về thế quyền mà người sáng lập là " Tiên tri Mohammed" trên 15 thế kỷ qua đã xem tín ngưỡng thần quyền như những giải pháp chính trị, điều này có thể áp dụng tốt vào những thời kỳ bán khai, mê tín thần quyền của loài người dùng làm chủ đạo để đi chinh phục các bộ lạc rãi rác khắp các bán đảo Á Rập; nhưng với kỷ nguyên văn minh nhân loại ngày nay thì không thể nhập nhằn khóa chung gíáo quyền và thế quyền vào một mối.
Đúng như binh gia lừng danh Clausewitz từng đề cập trong sách Chiến Tranh Luận (Vom Kriege): "Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng những phương tiện khác". Nhưng chính trị hủ bại, lạc đường thế kỷ, phần đông ở các quốc gia Hồi gíao đang là những vấn nạn tang thương nhất cho thế giới nhân loại ngày nay.
Phạm Thiên Thơ
Các Tin Khác