Tụng kinh - Sám hối có linh nghiệm hay không
Ngày đăng: 04:55:30 18-11-2014 . Xem: 2548
Tụng kinh sám hối Những lời Kinh tụng có linh nghiệm hay không? Sám hối có hết tội không? Làm sao để biết có sự linh nghiệm khi chúng ta tụng Kinh hoặc sám hối?
Nếu những lời Kinh tụng chính là những bài Kinh do chính Đức Phật thuyết giảng (Giáo Pháp), khi chúng ta tụng, có nghĩa là chúng ta trùng tuyên hay lập lại. Trùng tuyên lời của Đức Phật hay của những vị Thánh Tăng giảng dạy, trước tiên là chúng ta có phước.
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra. Thí dụ trường hợp vua A Xà Thế, khi sám hối việc cấu kết với Đề Bà Đạt Đa để giết cha mình, thì tâm cứ bức rức ăn năn khiến ông không chợp mắt được, nhưng sau khi ông đã thực hành sám hối, thì ông ngủ được yên. Điều này có nghĩa là năng lực sám hối đã giúp an tâm của ông và đồng thời ngăn chận bớt những mãnh lực của ác nghiệp.
Tuy nhiên, lời Kinh an lành hoặc năng lực sám hối nó chỉ có tác dụng tuỳ thuộc vào ba điều kiện sau:
1. Ác nghiệp chưa trổ quả. Đây là điều mà chúng ta phải cần phải lưu ý. Dù có tụng hàng ngàn, hàng vạn bài Kinh có năng lực như thế nào đi chăng nữa, nhưng một khi ác nghiệp đến lúc chín muồi và trổ quả thì cũng đành chịu. Trường hợp vị thiện nam Mahà Kàla là một ví dụ điển hình. Mahà Kàla đã đắc quả Dự lưu, thọ trì bát quan trai giới tốt đẹp, tuy nhiên do ác nghiệp ở quá khứ vu khống cho người khác trộm cắp để chiếm đoạt vợ người, và cũng do quả trổ nên ông bị đánh chết tại bờ hồ khi đi súc miệng [1]. Ngay cả với giòng Thích Ca, khi ác nghiệp đến thời trổ quả thì chính Đức Phật cũng đành chịu. Trong chuyện vua Vidùdabha trả thù giòng họ Thích Ca [2], Ngài chỉ cản ba lần thôi, cản là khi ác nghiệp chưa tới, đến khi đúng thời trổ rồi thì cũng chịu.
2. Những lời Kinh tụng tức là những lời an lành, những lời sám hối chỉ có tác dụng khi tâm không phiền não, nếu tâm bị phiền não hoặc ái dục chi phối thì tuy miệng tụng mà tâm cứ lo âu, sầu muộn, bồn chồn khó chịu, cứ nhớ tưởng tới những chuyện gì khác thì cũng chẳng khác gì trường hợp con công tụng bài kinh Hộ Kinh, suốt bảy trăm năm tụng bài Kinh này nó không bị bắt, mà chỉ một lần vì phiền não nhớ tiếng con công cái gáy, vậy mà bữa đó khi tụng Kinh nó bị thợ săn bắt.
3. Tụng kinh hay sám hối chỉ có năng lực khi tâm bình an tức là tâm không bị phóng dật, tâm an trú trong lời Kinh đó, hoặc lời sám hối đó. Nếu miệng tụng hoặc nói lời sám hối mà tâm không nhớ mình đã phạm lỗi cái đó hay không, hoặc tụng Kinh theo thói quen, theo trí nhớ, tụng không sai nhưng không an trú tâm ở trong bài Kinh, thì năng lực của sự tụng Kinh hoặc sám hối cũng không có được. Vì vậy, tụng Kinh, sám hối có linh nghiệm hay không cũng tuỳ trường hợp. Trong thực tế có những người bịnh nhờ chư tăng đến tụng kinh thoát khỏi tử thần cũng có. Có một câu chuyện thật, có một vị cư sĩ thuần thành, có con bị bệnh sắp chết, ông thỉnh Chư Tăng các vị Trưởng Lão ngày xưa như Ngài Phật Lạc, Ngài Tịnh Sự đến tụng kinh nhờ đó con ông đã thoát khỏi nguy hiểm và được sống tồn tại đến hôm nay.
Nếu những lời Kinh tụng chính là những bài Kinh do chính Đức Phật thuyết giảng (Giáo Pháp), khi chúng ta tụng, có nghĩa là chúng ta trùng tuyên hay lập lại. Trùng tuyên lời của Đức Phật hay của những vị Thánh Tăng giảng dạy, trước tiên là chúng ta có phước.
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra. Thí dụ trường hợp vua A Xà Thế, khi sám hối việc cấu kết với Đề Bà Đạt Đa để giết cha mình, thì tâm cứ bức rức ăn năn khiến ông không chợp mắt được, nhưng sau khi ông đã thực hành sám hối, thì ông ngủ được yên. Điều này có nghĩa là năng lực sám hối đã giúp an tâm của ông và đồng thời ngăn chận bớt những mãnh lực của ác nghiệp.
Tuy nhiên, lời Kinh an lành hoặc năng lực sám hối nó chỉ có tác dụng tuỳ thuộc vào ba điều kiện sau:
1. Ác nghiệp chưa trổ quả. Đây là điều mà chúng ta phải cần phải lưu ý. Dù có tụng hàng ngàn, hàng vạn bài Kinh có năng lực như thế nào đi chăng nữa, nhưng một khi ác nghiệp đến lúc chín muồi và trổ quả thì cũng đành chịu. Trường hợp vị thiện nam Mahà Kàla là một ví dụ điển hình. Mahà Kàla đã đắc quả Dự lưu, thọ trì bát quan trai giới tốt đẹp, tuy nhiên do ác nghiệp ở quá khứ vu khống cho người khác trộm cắp để chiếm đoạt vợ người, và cũng do quả trổ nên ông bị đánh chết tại bờ hồ khi đi súc miệng [1]. Ngay cả với giòng Thích Ca, khi ác nghiệp đến thời trổ quả thì chính Đức Phật cũng đành chịu. Trong chuyện vua Vidùdabha trả thù giòng họ Thích Ca [2], Ngài chỉ cản ba lần thôi, cản là khi ác nghiệp chưa tới, đến khi đúng thời trổ rồi thì cũng chịu.
2. Những lời Kinh tụng tức là những lời an lành, những lời sám hối chỉ có tác dụng khi tâm không phiền não, nếu tâm bị phiền não hoặc ái dục chi phối thì tuy miệng tụng mà tâm cứ lo âu, sầu muộn, bồn chồn khó chịu, cứ nhớ tưởng tới những chuyện gì khác thì cũng chẳng khác gì trường hợp con công tụng bài kinh Hộ Kinh, suốt bảy trăm năm tụng bài Kinh này nó không bị bắt, mà chỉ một lần vì phiền não nhớ tiếng con công cái gáy, vậy mà bữa đó khi tụng Kinh nó bị thợ săn bắt.
3. Tụng kinh hay sám hối chỉ có năng lực khi tâm bình an tức là tâm không bị phóng dật, tâm an trú trong lời Kinh đó, hoặc lời sám hối đó. Nếu miệng tụng hoặc nói lời sám hối mà tâm không nhớ mình đã phạm lỗi cái đó hay không, hoặc tụng Kinh theo thói quen, theo trí nhớ, tụng không sai nhưng không an trú tâm ở trong bài Kinh, thì năng lực của sự tụng Kinh hoặc sám hối cũng không có được. Vì vậy, tụng Kinh, sám hối có linh nghiệm hay không cũng tuỳ trường hợp. Trong thực tế có những người bịnh nhờ chư tăng đến tụng kinh thoát khỏi tử thần cũng có. Có một câu chuyện thật, có một vị cư sĩ thuần thành, có con bị bệnh sắp chết, ông thỉnh Chư Tăng các vị Trưởng Lão ngày xưa như Ngài Phật Lạc, Ngài Tịnh Sự đến tụng kinh nhờ đó con ông đã thoát khỏi nguy hiểm và được sống tồn tại đến hôm nay.
Sưu tầm