Hoạt dụng của Thiền định
Ngày đăng: 02:10:00 07-10-2018 . Xem: 702
Theo Tổ Sư Thiền, thoại đầu hay công án là phương tiện diệu dụng nhưng khó nuốt, đòi hỏi căn cơ bén nhạy, nhưng Như Lai Thiền lại dễ hành trì, không đòi hỏi trực giác để kiến tánh như Tổ Sư Thiền, y cứ vào giáo pháp Như Lai mà tuần tự hành trì. Các phương pháp hành thiền này đều dựa vào Kinh, Luật và Luận như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ Niệm Xứ, Thiền Sổ Tức … Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tính. Tổ Sư Thiền đòi hỏi dụng công miên mật, không an trú vào đề mục như Như Lai Thiền, luôn đặt tâm thức vào tình trạng căng thẳng của nghi tình, trong trạng thái hưng phấn; nghi đây không phải nghi ngờ mà là nghi vấn (thắc mắc), một nghi vấn không tìm lời giải đáp. Điều này hơi khó hiểu đối với một số vị chưa quen với pháp hành.
Ngày nay, trường phái thiền Vipassana đang hưng thịnh. Vipassana không phải trường phái thiền mới được sáng tạo như Tổ Sư Thiền trước kia, nó có từ thời đức Phật. Vipassana là một trong những phương pháp thiền định cổ xưa nhất của Ấn Độ. Nó được đức Phật khôi phục lại cách đây trên 2500 năm, đó là phương pháp cốt lõi mà đức Phật đã tu tập và giảng dạy. Được truyền thừa đến ngày nay, nhiều Thiền đường nổi tiếng phát xuất từ Miến Điện Và Thái Lan; từ đó phát triển khắp nơi, đồng thời quay trở lại nơi “chôn nhau cắt rốn” tại Ấn để gieo hạt phục hoạt.
Pháp Quán Niệm Hơi Thở theo Bài Kinh Tứ Niệm Xứ xuất phát từ bộ kinh An Ban Thủ Ý do ngài An Thế Cao dịch. Trong nội dung lời chú giải có mười sáu đề mục quán niệm hơi thở.
Khác với những đề mục quán tưởng khác, quán niệm hơi thở bao gồm cả hai phương pháp Chỉ và Quán hay Minh sát Vipassana).
Ngày nay, trường phái thiền Vipassana đang hưng thịnh. Vipassana không phải trường phái thiền mới được sáng tạo như Tổ Sư Thiền trước kia, nó có từ thời đức Phật. Vipassana là một trong những phương pháp thiền định cổ xưa nhất của Ấn Độ. Nó được đức Phật khôi phục lại cách đây trên 2500 năm, đó là phương pháp cốt lõi mà đức Phật đã tu tập và giảng dạy. Được truyền thừa đến ngày nay, nhiều Thiền đường nổi tiếng phát xuất từ Miến Điện Và Thái Lan; từ đó phát triển khắp nơi, đồng thời quay trở lại nơi “chôn nhau cắt rốn” tại Ấn để gieo hạt phục hoạt.
Pháp Quán Niệm Hơi Thở theo Bài Kinh Tứ Niệm Xứ xuất phát từ bộ kinh An Ban Thủ Ý do ngài An Thế Cao dịch. Trong nội dung lời chú giải có mười sáu đề mục quán niệm hơi thở.
Khác với những đề mục quán tưởng khác, quán niệm hơi thở bao gồm cả hai phương pháp Chỉ và Quán hay Minh sát Vipassana).
Quán Niệm Hơi Thở có mười sáu giai đoạn, chia ra làm bốn phần, mỗi phần có bốn cách tập. Chủ yếu là tạo ý thức tỉnh giác , căn bản của tuệ giác, và bốn giai đoạn quán niệm là bốn lĩnh vực tỉnh thức về thân, thọ, tâm, pháp. Nó cũng không giống với các phương pháp thiền định khác do chính Phật truyền dạy như 10 đề mục quán bất tịnh, bất tịnh nơi thân thể …
Về sau, khi Phật giáo lưu truyền sang các quốc gia hướng Bắc, để thích nghi với căn cơ và thổ nhưỡng đương thời, chư Tổ đã phương tiện chế tác ra pháp hành theo chủ trương của đức Bồ Đề Đạt Ma “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Khán thoại đầu hay thiền công án, nếu sở đắc, cũng chỉ hạn chế đối với một đương cơ nhất định, khác với trường phái thiền Nguyên thủy như Vipassana, mang tính phổ biến cơ bản, một lớp thiền 10 ngày đầu, những thiền sinh tham gia, ít nhiều cảm nhận được sự huyền nhiệm của tâm thức, có một thay đổi nhất định trong tâm thức và đời sống thường nhật, làm căn bản cho những khóa thiền với thời gian dài hơn, tiếp theo. Đã có những thiền sinh sở đắc phần nào tuệ giác theo cách quán sát 16 giai đoạn trên “thân thọ tâm pháp”. Tuy nhiên, năm chướng ngại căn bản của tâm thức, không những cản trở bước tiến, đôi khi lạc dẫn thiền sinh vào ảo giác khi mà hành giả không phân biệt được thế nào là ảo giác, thế nào là tuệ giác khởi hiện.
Đức Phật giảng dạy tóm tắt việc chế ngự năm triền cái ấy như sau:
“… Vị Tỳ kheo lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chính niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chính niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với các thiện pháp…”
Ở đây, năm chướng ngại ấy trong tiến trình tu tập hành thiền của hành giả là:
1. THAM DỤC
2. SÂN HẬN
3. HÔN TRẦM
4. TRẠO CỬ
5. HOÀI NGHI
***
Qua những trải nghiệm của các hành giả khi thực thụ bước vào lĩnh vực “chính định”, giữa cận định và chính định, thường xuất hiện những hiện tượng như là ảo giác, ảo ảnh, xuất hiện ánh sáng rực rỡ, tâm thái an lạc, hoan hỷ, tình thương tràn đầy, hay âm thanh vi diệu…
Đó là những chủng tử có sẵn trong a lại ya thức, tâm nhiễm ô thì chúng lặn, tâm thanh tịnh chúng xuất hiện. Khi chúng xuất hiện ở ngưỡng cửa chính định mà khởi tâm đắm trước, trở thành một chướng ngại lớn cho việc tiến tu, việc hành trì sẽ bị dẫm chân tại chỗ.
Căn cơ chúng sinh không đồng thì cũng không thể áp dụng duy nhất một pháp hành, cũng như nhiều căn bệnh, hay một loại bệnh có nhiều nguyên nhân, đòi hỏi liệu trình chửa trị phải khác nhau. Câu chuyện sau đây sẽ minh chứng cho điều đó:
“Đệ tử trẻ của Tôn giả Xá lợi phất: "Hãy thay bến nước khác" (Bổn sinh Tittha, Jàt. 182).
Chuyện kể rằng theo lời dạy của Tôn giả, một người đệ tử trẻ đã thực hành quán tưởng bất tịnh trong bốn tháng nhưng vẫn không có tiến bộ trong việc phát triển Thiền quán. Tôn giả quán biết người đệ tử có duyên được Phật độ, đã đưa người đệ tử đến yết kiến Thế Tôn và trình lên Thế Tôn sự việc.
Thế Tôn biết tâm hướng của người đệ tử trẻ ấy thích hợp với đối tượng quán tịnh hơn, do vì nhiều kiếp trước sinh vào gia đình thợ vàng chuyên thấy vành thanh tịnh. Thế Tôn bèn cho người đệ tử trẻ ấy, mặc y phục trong và ngoài tốt đẹp, dẫn đi khất thực các thức ăn thượng vị, cho nghỉ trưa ở hương phòng, rồi cho đi ngắm một hồ sen tuyệt đẹp (hồ sen do thần lực của Thế Tôn thị hiện), ở đó có đóa hoa tuyệt thắm, đẹp mắt. Thế Tôn bảo người đệ tử trẻ ngắm sen và chờ Thế Tôn về hương phòng một lát sẽ trở lại.
Ðang lúc mải ngắm đóa sen tuyệt thắm, đóa sen bổng dưng héo và rụng. Người đệ tử hốt nhiên bừng sáng lý vô thường, tâm hoàn toàn ly tham, trực đắc A la hán quả.”
Ðây là một trường hợp điển hình về đối tượng quán tưởng tương ưng với tâm lý của hành giả.
Khi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa, do căn cơ Phật pháp hạn chế, quen với truyền thống hành trì cầu phúc, nghe Tổ phủ nhận phúc báu xây chùa tạo tượng, Lương Vũ đế bèn cho Tổ là ngoại đạo vì chưa hiểu được tinh thần thượng thừa của nhà Phật. Suốt thời gian dài 9 năm quay mặt vào vách, được một truyền nhân duy nhất là Huệ Khả, cứ thế thầy truyền cho trò đến Tổ thứ sáu là Huệ Năng. Qua 6 đời, mỗi đời chỉ đào tạo duy nhất được một người kế thừa. Do pháp kén chọn căn cơ nên lượng số thiền sinh đạt chuẩn quá hạn chế, trong khi pháp hành Vipassana hoặc những phép quán tương tợ, thiền sinh dễ hành trì và tuần tự tuệ giác phát sinh. Mục đích đức Phật trao truyền mang tính đại chúng chứ không chỉ có thế một thầy một trò tương ứng với nhau.
Từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến chư Tổ về sau, vẫn bị truyền thống lễ nghi tôn giáo trong nhà Phật lúc bấy giờ xem là tà giáo ngoại đạo,trãi qua thời gian dài thử thách, những gì là chân lý luôn tồn tại và phát triển, lúc bấy giờ, một bộ phận Tăng sĩ cấp tiến và giới trí thức kiểm chứng pháp hành của Tổ sư thiền, xác nhận vẫn hàm tàng “tam pháp ấn” và đích đến vẫn là giải thoát khỏi tam giới. Câu nói “ai thấy Phật là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật”, bởi vậy – “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch Bồ đề, cáp như cầu thố giác”. Lá rơi, suối reo, gió động, vô thường…đều là pháp trợ duyên cho hành giả quán nhân duyên mà đắc pháp. Vô lượng pháp môn tu là thế.
Về sau, khi Phật giáo lưu truyền sang các quốc gia hướng Bắc, để thích nghi với căn cơ và thổ nhưỡng đương thời, chư Tổ đã phương tiện chế tác ra pháp hành theo chủ trương của đức Bồ Đề Đạt Ma “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Khán thoại đầu hay thiền công án, nếu sở đắc, cũng chỉ hạn chế đối với một đương cơ nhất định, khác với trường phái thiền Nguyên thủy như Vipassana, mang tính phổ biến cơ bản, một lớp thiền 10 ngày đầu, những thiền sinh tham gia, ít nhiều cảm nhận được sự huyền nhiệm của tâm thức, có một thay đổi nhất định trong tâm thức và đời sống thường nhật, làm căn bản cho những khóa thiền với thời gian dài hơn, tiếp theo. Đã có những thiền sinh sở đắc phần nào tuệ giác theo cách quán sát 16 giai đoạn trên “thân thọ tâm pháp”. Tuy nhiên, năm chướng ngại căn bản của tâm thức, không những cản trở bước tiến, đôi khi lạc dẫn thiền sinh vào ảo giác khi mà hành giả không phân biệt được thế nào là ảo giác, thế nào là tuệ giác khởi hiện.
Đức Phật giảng dạy tóm tắt việc chế ngự năm triền cái ấy như sau:
“… Vị Tỳ kheo lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chính niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chính niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với các thiện pháp…”
Ở đây, năm chướng ngại ấy trong tiến trình tu tập hành thiền của hành giả là:
1. THAM DỤC
2. SÂN HẬN
3. HÔN TRẦM
4. TRẠO CỬ
5. HOÀI NGHI
***
Qua những trải nghiệm của các hành giả khi thực thụ bước vào lĩnh vực “chính định”, giữa cận định và chính định, thường xuất hiện những hiện tượng như là ảo giác, ảo ảnh, xuất hiện ánh sáng rực rỡ, tâm thái an lạc, hoan hỷ, tình thương tràn đầy, hay âm thanh vi diệu…
Đó là những chủng tử có sẵn trong a lại ya thức, tâm nhiễm ô thì chúng lặn, tâm thanh tịnh chúng xuất hiện. Khi chúng xuất hiện ở ngưỡng cửa chính định mà khởi tâm đắm trước, trở thành một chướng ngại lớn cho việc tiến tu, việc hành trì sẽ bị dẫm chân tại chỗ.
Căn cơ chúng sinh không đồng thì cũng không thể áp dụng duy nhất một pháp hành, cũng như nhiều căn bệnh, hay một loại bệnh có nhiều nguyên nhân, đòi hỏi liệu trình chửa trị phải khác nhau. Câu chuyện sau đây sẽ minh chứng cho điều đó:
“Đệ tử trẻ của Tôn giả Xá lợi phất: "Hãy thay bến nước khác" (Bổn sinh Tittha, Jàt. 182).
Chuyện kể rằng theo lời dạy của Tôn giả, một người đệ tử trẻ đã thực hành quán tưởng bất tịnh trong bốn tháng nhưng vẫn không có tiến bộ trong việc phát triển Thiền quán. Tôn giả quán biết người đệ tử có duyên được Phật độ, đã đưa người đệ tử đến yết kiến Thế Tôn và trình lên Thế Tôn sự việc.
Thế Tôn biết tâm hướng của người đệ tử trẻ ấy thích hợp với đối tượng quán tịnh hơn, do vì nhiều kiếp trước sinh vào gia đình thợ vàng chuyên thấy vành thanh tịnh. Thế Tôn bèn cho người đệ tử trẻ ấy, mặc y phục trong và ngoài tốt đẹp, dẫn đi khất thực các thức ăn thượng vị, cho nghỉ trưa ở hương phòng, rồi cho đi ngắm một hồ sen tuyệt đẹp (hồ sen do thần lực của Thế Tôn thị hiện), ở đó có đóa hoa tuyệt thắm, đẹp mắt. Thế Tôn bảo người đệ tử trẻ ngắm sen và chờ Thế Tôn về hương phòng một lát sẽ trở lại.
Ðang lúc mải ngắm đóa sen tuyệt thắm, đóa sen bổng dưng héo và rụng. Người đệ tử hốt nhiên bừng sáng lý vô thường, tâm hoàn toàn ly tham, trực đắc A la hán quả.”
Ðây là một trường hợp điển hình về đối tượng quán tưởng tương ưng với tâm lý của hành giả.
Khi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa, do căn cơ Phật pháp hạn chế, quen với truyền thống hành trì cầu phúc, nghe Tổ phủ nhận phúc báu xây chùa tạo tượng, Lương Vũ đế bèn cho Tổ là ngoại đạo vì chưa hiểu được tinh thần thượng thừa của nhà Phật. Suốt thời gian dài 9 năm quay mặt vào vách, được một truyền nhân duy nhất là Huệ Khả, cứ thế thầy truyền cho trò đến Tổ thứ sáu là Huệ Năng. Qua 6 đời, mỗi đời chỉ đào tạo duy nhất được một người kế thừa. Do pháp kén chọn căn cơ nên lượng số thiền sinh đạt chuẩn quá hạn chế, trong khi pháp hành Vipassana hoặc những phép quán tương tợ, thiền sinh dễ hành trì và tuần tự tuệ giác phát sinh. Mục đích đức Phật trao truyền mang tính đại chúng chứ không chỉ có thế một thầy một trò tương ứng với nhau.
Từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến chư Tổ về sau, vẫn bị truyền thống lễ nghi tôn giáo trong nhà Phật lúc bấy giờ xem là tà giáo ngoại đạo,trãi qua thời gian dài thử thách, những gì là chân lý luôn tồn tại và phát triển, lúc bấy giờ, một bộ phận Tăng sĩ cấp tiến và giới trí thức kiểm chứng pháp hành của Tổ sư thiền, xác nhận vẫn hàm tàng “tam pháp ấn” và đích đến vẫn là giải thoát khỏi tam giới. Câu nói “ai thấy Phật là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật”, bởi vậy – “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch Bồ đề, cáp như cầu thố giác”. Lá rơi, suối reo, gió động, vô thường…đều là pháp trợ duyên cho hành giả quán nhân duyên mà đắc pháp. Vô lượng pháp môn tu là thế.
Càng lâu dài, càng phát sinh nhiều pháp môn mang nhãn mark Phật giáo, nhưng đôi khi đưa hành giả lạc vào ma trận đồ; người khai sáng ra pháp mới lạ, tuệ giác chưa đủ công năng bạt trừ nghiệp chướng tự thân, làm sao giúp đệ tử khỏi bị lạc dẫn vào mê lộ tà thuật, ngã mạng cống cao. Kinh Lăng Nghiêm giúp cho hành giả bất cứ pháp hành nào nắm vững ngũ ấm ma nội tâm, sẽ tự điều chỉnh từng công đoạn lộ trình tiến tu đạo nghiệp.
***
QUAN ĐIỂM DỊ BIỆT
Tùy mỗi pháp, có một lý giải khác nhau, lý sự tương đồng pháp hành mới vững chải.Tuy nhiên đứng một góc độ toàn triệt, Krishnamurti hiểu về tham thiền có khác:
Giải thoát khỏi mọi hành vi vị ngã mà không có cố gắng (Krishnamurti)
“Câu hỏi được đặt ra là: có thể nào giải thoát khỏi mọi hành vi vị ngã mà không có cố gắng, không nỗ lực giải trừ nó, để rồi tạo nên vấn đề không? Tôi hy vọng đã đặt câu hỏi rõ ràng, bằng không thì những điều được trình bày kế tiếp sau đây sẽ thiếu minh bạch hoàn toàn. Danh từ "tham thiền", đại khái, có nghĩa là suy xét một điều gì, khám phá nó, dừng lại với nó; hoặc cũng có thể danh từ ấy chỉ một tâm thái chiêm ngưỡng trong đó không có tư tưởng. Danh từ ấy rất ít có ý nghĩa đối với phần đất này của thế giới, nhưng nó mang một nghĩa lý phi thường ở Đông phương. Người ta đã viết nhiều về đề tài này, có nhiều trường phái giảng dạy những phương pháp và những hệ thống khác biệt về tham thiền. Theo tôi, tất cả những cái đó đều không phải là tham thiền. Tham thiền là tự "làm trống rỗng" tâm thức mình, chứ ta không thể tự cưỡng bách làm trống rỗng tâm thức mình bằng cách thực hành một phương pháp, theo một trường phái hay hệ thống.”
Với tuệ giác toàn triệt của Krishnamurti, điều này đúng, nhưng một thiền sinh bước đầu thâm nhập vào lĩnh vực tâm linh, “tự mình làm rỗng tâm thức” hay “cưỡng bách làm rỗng tâm thức” đều là một, khác chăng chỉ là dụng công cố gắng. Cho dù “tự mình làm rỗng tâm thức” cũng lạc vào “ngoan không” khi mà hành giả chưa thực thụ đứng hẳn vào khu vực tuệ giác như Krishnamurti.
“Thực hành một phương pháp tham thiền là đuổi bắt cảm giác và nhận thức, đó là toan tính sống một kinh nghiệm cao hơn hay "cùng tột", và khi ta đã thấu hiểu bản chất của tất cả mọi kinh nghiệm rồi, thì ta dẹp hết mọi phương pháp, ta gác chúng qua một bên, ta xa rời chúng vĩnh viễn, bởi vì ta không còn là đệ tử của ai cả, ta không còn tìm cách sống những kinh nghiệm nữa, ta không còn muốn có những thấy – biết nữa. Tất cả mọi tìm kiếm để thấy biết, tất cả mọi sự căng thẳng giả tạo về cảm giác – bằng những chất ma túy, bằng những giới luật, bằng những nghi thức lễ bái, sùng thượng, bằng cầu nguyện – đều toàn là hành vi vị ngã.”
Nếu bảo thực hành một phương pháp tham thiền là đuổi bắt cảm giác và nhận thức, đó là toan tính sống một kinh nghiệm cao hơn hay “cùng tột”…thế thì mọi pháp hành do đức Phật để lại đều vô nghĩa??? Buông bỏ tất cả, vô tu vô chứng, mọi sự đều không không, không thầy không đệ tử, không giới luật…???
“Cái gì đã là tràn đầy ánh sáng, tất không đòi hỏi thêm ánh sáng – tự nó là ánh sáng rồi, và tất cả mọi ảnh hưởng nhiễm độc, mọi kinh nghiệm xâm nhập vào vùng ánh sáng ấy liền được thiêu hủy từng phút từng giây, để tâm thức luôn luôn sáng tỏ, vô nhiễm mới có thể thấy được chỗ siêu xuất khỏi giới hạn đo lường của thời gian.”
Điều này Krishnamurti nói đúng, đã tràn đầy ánh sáng thì không cần đòi hỏi thêm ánh sáng. Mọi ảnh hưởng nhiễm độc không bị giải trừ thì “ánh sáng tuệ giác” làm sao hiển lộ? muốn giải trừ mọi nhiễm độc mà không dụng công là điều không tưởng. Ánh sáng tuệ gác tự nó hiển lộ thì mọi nhiễm độc tự nó cũng hiển lộ vậy thôi.
“Khi tâm thức tự hiến và quên mình trong một sự đồng nhất trọn vẹn, tâm thức có thể hoàn toàn tịch lặng, nhưng nó rơi vào một trạng thái loạn thần. Ước vọng đồng nhất vào một mục đích, một ý niệm, một biểu tượng, một xứ sở, một chủng tộc, tức là mắc chứng loạn thần, như trường hợp tất cả những người gọi là tu hành mộ đạo. Họ tự đồng nhất vào Đấng Cứu thế, vào đức thầy, vào cái này cái nọ, điều đó tạo cho họ một niềm an ủi lớn lao và một cái nhìn hạnh phúc về đời sống. Thái độ này hoàn toàn là loạn thần.”
Nói như Krishnamurti, nhập vào Thượng đế, Atman nhập vào Brahman (Tiểu ngã hòa nhập vào Đại ngã), Phật tánh là năng lượng tuệ giác và từ bi, hành giả chứng đắc là đồng nhất với tuệ giác và từ bi…đều là loạn thần??? Theo Krishnamurti chỉ có một loại tịch lặng đồng nhất do tâm thức tự hiến và quên mình, ngoài ra nếu có sự tịch lặng nào khác, đó là trạng thái tịch lặng loạn thần.!
Cũng thế, theo Krishnamurti, cái gọi là đạo đức theo mô hình xã hội hay tôn giáo chưa phải là đạo đức thực sự, đó là loại đạo đức rập khuôn, không có tự do.Nhưng một khi còn bị ràng buộc vào những định chế xã hội, tôn giáo, một khi tự thân chưa đủ năng lực tự mình “làm rỗng tâm thức”, làm sao thoát vượt được cái đạo đức rập khuôn đó nếu không từ bàn đạp tôn giáo để bước vào lĩnh vực phi tôn giáo như ngài Krishnamurti?
***
Tóm lại: Nơi đây ta không bàn đến trạng thái “nhập thần” và ngôn ngữ xuất thần như ngài Krishnamurti, chỉ tạm tìm hiểu các trạng thái “tịch mặc” của những hành giả bước qua ngưỡng cửa chính định. Một câu hỏi sẽ xuất hiện – lấy gì làm căn cứ để xác định hành giả đó đang ở trong lĩnh vực đắc pháp? Chúng ta đừng lầm lẫn giữa đắc pháp và đắc đạo, đắc pháp là tiến trình đưa đến ngộ đạo. Hành giả nắm được mấu chốt pháp hành, thường tinh tấn một cách miên mật, trong quá trình hành trì đó, trạng thái tâm sinh lý có nhiều chuyển biến tích cực; mọi tính hư tật xấu tự nó rơi rụng mà không cần dụng công loại trừ. Tâm thái an lạc,trầm tĩnh,từ tốn; trong tâm thức không tồn tại mọi thắc mắc ngờ vực,hay ham muốn mong cầu; lòng từ bi phủ trùm trong mọi ý nghĩ, hành động và lời nói; trí tuệ phát triển và có nhiều khả năng đặc biệt…
Tất cả mọi ưu điểm đó không do học hỏi trong đời này, chúng là những hạt giống chìm lặng trong tiềm thức khi mà bị những cơn sóng loạn động u trược phủ lấp.Hành giả thủ đắc trạng thái tịch mặc, những cơn sóng loạn động u trược đó biến thành mặt hồ tĩnh lặng, những hạt giống siêu xuất tự chúng hiển lộ. Đối trước mọi biến cố, mọi vấn nạn, hành giả thong dong như kẻ vô sự, đó là những hoạt dụng của Thiền định.
Như vậy,bất cứ pháp hành nào xuất phát từ Phật giáo hay ngoài Phật giáo, mang tính giải thoát, ẩn tàng tam pháp ấn, đem lại hiệu quả nhất định, đều là con đường đưa đến chân lý. Cũng có không ít những bậc duyên giác, không tu theo Phật, không học với ngoại giáo, chủng tử hướng thượng sẵn có, đối diện với nhiều khổ đau bất trắc, bỗng chốc trực diện trước những cái bất ngờ ngoài trí tưởng tượng hiểu biết, một cảm xúc một trạng thái bất chợt “đứng hình”, khác nào trạng thái hành giả đứng trước sự bế tắt một công án Đấy là một trong những hình thức đưa đến sự tịch lặng. Nếu đương cơ tiếp tục duy trì trạng thái đó lâu dài sẽ bước vào đại định, ánh sáng tuệ giác sẽ hiển lộ.
Hoạt dụng của Thiền định thiên hình vạn trạng, tùy thuộc vào căn cơ của hành giả, khó mà lột tả.
***
QUAN ĐIỂM DỊ BIỆT
Tùy mỗi pháp, có một lý giải khác nhau, lý sự tương đồng pháp hành mới vững chải.Tuy nhiên đứng một góc độ toàn triệt, Krishnamurti hiểu về tham thiền có khác:
Giải thoát khỏi mọi hành vi vị ngã mà không có cố gắng (Krishnamurti)
“Câu hỏi được đặt ra là: có thể nào giải thoát khỏi mọi hành vi vị ngã mà không có cố gắng, không nỗ lực giải trừ nó, để rồi tạo nên vấn đề không? Tôi hy vọng đã đặt câu hỏi rõ ràng, bằng không thì những điều được trình bày kế tiếp sau đây sẽ thiếu minh bạch hoàn toàn. Danh từ "tham thiền", đại khái, có nghĩa là suy xét một điều gì, khám phá nó, dừng lại với nó; hoặc cũng có thể danh từ ấy chỉ một tâm thái chiêm ngưỡng trong đó không có tư tưởng. Danh từ ấy rất ít có ý nghĩa đối với phần đất này của thế giới, nhưng nó mang một nghĩa lý phi thường ở Đông phương. Người ta đã viết nhiều về đề tài này, có nhiều trường phái giảng dạy những phương pháp và những hệ thống khác biệt về tham thiền. Theo tôi, tất cả những cái đó đều không phải là tham thiền. Tham thiền là tự "làm trống rỗng" tâm thức mình, chứ ta không thể tự cưỡng bách làm trống rỗng tâm thức mình bằng cách thực hành một phương pháp, theo một trường phái hay hệ thống.”
Với tuệ giác toàn triệt của Krishnamurti, điều này đúng, nhưng một thiền sinh bước đầu thâm nhập vào lĩnh vực tâm linh, “tự mình làm rỗng tâm thức” hay “cưỡng bách làm rỗng tâm thức” đều là một, khác chăng chỉ là dụng công cố gắng. Cho dù “tự mình làm rỗng tâm thức” cũng lạc vào “ngoan không” khi mà hành giả chưa thực thụ đứng hẳn vào khu vực tuệ giác như Krishnamurti.
“Thực hành một phương pháp tham thiền là đuổi bắt cảm giác và nhận thức, đó là toan tính sống một kinh nghiệm cao hơn hay "cùng tột", và khi ta đã thấu hiểu bản chất của tất cả mọi kinh nghiệm rồi, thì ta dẹp hết mọi phương pháp, ta gác chúng qua một bên, ta xa rời chúng vĩnh viễn, bởi vì ta không còn là đệ tử của ai cả, ta không còn tìm cách sống những kinh nghiệm nữa, ta không còn muốn có những thấy – biết nữa. Tất cả mọi tìm kiếm để thấy biết, tất cả mọi sự căng thẳng giả tạo về cảm giác – bằng những chất ma túy, bằng những giới luật, bằng những nghi thức lễ bái, sùng thượng, bằng cầu nguyện – đều toàn là hành vi vị ngã.”
Nếu bảo thực hành một phương pháp tham thiền là đuổi bắt cảm giác và nhận thức, đó là toan tính sống một kinh nghiệm cao hơn hay “cùng tột”…thế thì mọi pháp hành do đức Phật để lại đều vô nghĩa??? Buông bỏ tất cả, vô tu vô chứng, mọi sự đều không không, không thầy không đệ tử, không giới luật…???
“Cái gì đã là tràn đầy ánh sáng, tất không đòi hỏi thêm ánh sáng – tự nó là ánh sáng rồi, và tất cả mọi ảnh hưởng nhiễm độc, mọi kinh nghiệm xâm nhập vào vùng ánh sáng ấy liền được thiêu hủy từng phút từng giây, để tâm thức luôn luôn sáng tỏ, vô nhiễm mới có thể thấy được chỗ siêu xuất khỏi giới hạn đo lường của thời gian.”
Điều này Krishnamurti nói đúng, đã tràn đầy ánh sáng thì không cần đòi hỏi thêm ánh sáng. Mọi ảnh hưởng nhiễm độc không bị giải trừ thì “ánh sáng tuệ giác” làm sao hiển lộ? muốn giải trừ mọi nhiễm độc mà không dụng công là điều không tưởng. Ánh sáng tuệ gác tự nó hiển lộ thì mọi nhiễm độc tự nó cũng hiển lộ vậy thôi.
“Khi tâm thức tự hiến và quên mình trong một sự đồng nhất trọn vẹn, tâm thức có thể hoàn toàn tịch lặng, nhưng nó rơi vào một trạng thái loạn thần. Ước vọng đồng nhất vào một mục đích, một ý niệm, một biểu tượng, một xứ sở, một chủng tộc, tức là mắc chứng loạn thần, như trường hợp tất cả những người gọi là tu hành mộ đạo. Họ tự đồng nhất vào Đấng Cứu thế, vào đức thầy, vào cái này cái nọ, điều đó tạo cho họ một niềm an ủi lớn lao và một cái nhìn hạnh phúc về đời sống. Thái độ này hoàn toàn là loạn thần.”
Nói như Krishnamurti, nhập vào Thượng đế, Atman nhập vào Brahman (Tiểu ngã hòa nhập vào Đại ngã), Phật tánh là năng lượng tuệ giác và từ bi, hành giả chứng đắc là đồng nhất với tuệ giác và từ bi…đều là loạn thần??? Theo Krishnamurti chỉ có một loại tịch lặng đồng nhất do tâm thức tự hiến và quên mình, ngoài ra nếu có sự tịch lặng nào khác, đó là trạng thái tịch lặng loạn thần.!
Cũng thế, theo Krishnamurti, cái gọi là đạo đức theo mô hình xã hội hay tôn giáo chưa phải là đạo đức thực sự, đó là loại đạo đức rập khuôn, không có tự do.Nhưng một khi còn bị ràng buộc vào những định chế xã hội, tôn giáo, một khi tự thân chưa đủ năng lực tự mình “làm rỗng tâm thức”, làm sao thoát vượt được cái đạo đức rập khuôn đó nếu không từ bàn đạp tôn giáo để bước vào lĩnh vực phi tôn giáo như ngài Krishnamurti?
***
Tóm lại: Nơi đây ta không bàn đến trạng thái “nhập thần” và ngôn ngữ xuất thần như ngài Krishnamurti, chỉ tạm tìm hiểu các trạng thái “tịch mặc” của những hành giả bước qua ngưỡng cửa chính định. Một câu hỏi sẽ xuất hiện – lấy gì làm căn cứ để xác định hành giả đó đang ở trong lĩnh vực đắc pháp? Chúng ta đừng lầm lẫn giữa đắc pháp và đắc đạo, đắc pháp là tiến trình đưa đến ngộ đạo. Hành giả nắm được mấu chốt pháp hành, thường tinh tấn một cách miên mật, trong quá trình hành trì đó, trạng thái tâm sinh lý có nhiều chuyển biến tích cực; mọi tính hư tật xấu tự nó rơi rụng mà không cần dụng công loại trừ. Tâm thái an lạc,trầm tĩnh,từ tốn; trong tâm thức không tồn tại mọi thắc mắc ngờ vực,hay ham muốn mong cầu; lòng từ bi phủ trùm trong mọi ý nghĩ, hành động và lời nói; trí tuệ phát triển và có nhiều khả năng đặc biệt…
Tất cả mọi ưu điểm đó không do học hỏi trong đời này, chúng là những hạt giống chìm lặng trong tiềm thức khi mà bị những cơn sóng loạn động u trược phủ lấp.Hành giả thủ đắc trạng thái tịch mặc, những cơn sóng loạn động u trược đó biến thành mặt hồ tĩnh lặng, những hạt giống siêu xuất tự chúng hiển lộ. Đối trước mọi biến cố, mọi vấn nạn, hành giả thong dong như kẻ vô sự, đó là những hoạt dụng của Thiền định.
Như vậy,bất cứ pháp hành nào xuất phát từ Phật giáo hay ngoài Phật giáo, mang tính giải thoát, ẩn tàng tam pháp ấn, đem lại hiệu quả nhất định, đều là con đường đưa đến chân lý. Cũng có không ít những bậc duyên giác, không tu theo Phật, không học với ngoại giáo, chủng tử hướng thượng sẵn có, đối diện với nhiều khổ đau bất trắc, bỗng chốc trực diện trước những cái bất ngờ ngoài trí tưởng tượng hiểu biết, một cảm xúc một trạng thái bất chợt “đứng hình”, khác nào trạng thái hành giả đứng trước sự bế tắt một công án Đấy là một trong những hình thức đưa đến sự tịch lặng. Nếu đương cơ tiếp tục duy trì trạng thái đó lâu dài sẽ bước vào đại định, ánh sáng tuệ giác sẽ hiển lộ.
Hoạt dụng của Thiền định thiên hình vạn trạng, tùy thuộc vào căn cơ của hành giả, khó mà lột tả.
Theo Minh Mẫn
Các Tin Khác