Vài Nét Về Phật Giáo Và Khoa Học (P.1)
Điều này, phản ánh một sự kiện: trong những xã hội này, con người đã quen với tính chất chính xác và hợp lý của khoa học, và họ ngả theo Phật Giáo vì tinh thần Phật Giáo rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hơn nữa, trong lịch sử Phật Giáo, họ không tìm thấy một dấu vết tỳ ố nào về vấn đề chống khoa học hay đàn áp khoa học gia bằng bạo lực, chưa kể là Phật Giáo đã giúp họ giải quyết được một số vấn đề trong thời đại khoa học tân tiến ngày nay. Và hay hơn cả là, trong suốt giòng lịch sử truyền đạo hơn 2500 năm, Phật Giáo chưa hề làm đổ một giọt máu của người vô tội và cũng chưa hề cưỡng bức ai phải theo Phật Giáo. Chủ trương hòa bình của Phật Giáo là điều mà thế giới tranh chấp hỗn loạn ngày nay cần hơn gì hết.
Thật vậy, Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition), xuất bản năm 1994, sau khi phân tích và đánh giá cái di sản Do Thái - Ki Tô (A Critical and Evaluation of the Judeo-Christian Legacy), đã đề nghị những Tín Ngưỡng Khác Thay Cho Thần Giáo (Alternatives to Theism). Về Phật Giáo tác giả viết, trang 424:
Lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo là, giống như Khổng giáo, hệ thống tín ngưỡng này đã hiện hữu trong 25 thế kỷ mà không hề có một cuộc Thánh Chiến, một Tòa Án Xử Dị Giáo, hay một toan tính đế quốc nào nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác. ác.
(The best recommendation for Buddhism is that, like Confucianism, this belief system has existed for twenty-five centuries without a single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and destroy the culture of another people.)
Chúng ta đã biết, Thánh Chiến, Tòa Án Xử và Thiêu Sống Dị Giáo, Săn Lùng Tra Tấn Và Thiêu Sống Phù Thủy, Toan tính Đế Quốc nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác v…v… đều là những núi tội ác của Công giáo mà Giáo hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới ngày 12 tháng 3, năm 2000.
Sự phát triển của Phật Giáo vào các xã hội tân tiến Âu Mỹ đã làm cho một số người vô minh trong những xã hội này lo sợ, lo sợ vì ánh sáng trí tuệ và đạo đức của Phật Giáo đã làm cho bóng tối của những mê tín phi lý, phi đạo đức phải lùi dần, và những người xây dựng quyền lực trên bóng tối của vô minh cảm thấy bị đe dọa vì quyền lực thế gian cũng như những đặc quyền vật chất của mình cứ mất dần. Cho nên, đã có bậc chủ chăn của một tôn giáo lớn ở Tây phương đã phải dùng đến hạ sách là viết sách xuyên tạc Phật Giáo để mong vớt vát phần nào niềm tin đã lung lay còn sót lại trong số tín đồ phần lớn ở trong các quốc gia nghèo khổ và kém mở mang. Ngoài ra, cũng có một số người trong Phật Giáo, đưa ra những tương đồng giữa Phật Giáo và Khoa Học với mục đích đề cao Phật Giáo trong thời đại tiến bộ của khoa học. Do đó, đã có một số người lên tiếng chê bai và cho rằng, làm như vậy là "Thấy sang bắt quàng làm họ, dùng những giả thiết trong khoa học để biện hộ cho niềm tin Phật Giáo."
Theo thiển ý, những người dùng khoa học để đề cao Phật Giáo cũng như những người phê phán là “Phật Giáo thấy sang bắt quàng làm họ v..v..” có lẽ chưa hiểu rõ, dù chỉ là đại cương, hoặc về Phật Giáo, hoặc về Khoa Học, hoặc về cả hai, cho nên mới bị cái hào quang của Khoa Học làm cho mờ mắt và đánh giá sai lầm thực chất của Khoa Học. Họ không thấy được những giới hạn của khoa học vì bản chất tương đối của khoa học và cũng không hiểu được cái niềm tin Phật Giáo là niềm tin về sự thực chứng, kết quả của sự tu tập, mang phúc lợi tới mọi chúng sinh, chứ không phải là một niềm tin mù quáng vào vài giáo thuyết hoang đường.
Thật vậy, thực tế là một số Khoa học gia trong vài thập niên gần đây đã phải dùng những tư tưởng trong Phật Giáo để giải quyết những bế tắc trong việc diễn giải những hiện tượng khoa học mà họ khám phá ra, thí dụ như quan niệm "vạn pháp qui nhất", quan niệm "tương duyên, tương tức", quan niệm "dung thông" v..v.. của Phật Giáo. Và cũng thực tế là, trong nhiều bộ môn khoa học, tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học khá xa. Cho nên, phê bình là "Thấy sang bắt quàng làm họ" thì có thể đúng với tôn giáo khác, nhưng đối với Phật Giáo thì là một sự phê phán ngược chiều.
Vấn đề tinh thần Phật Giáo không xa lạ với tinh thần Khoa Học đã rõ ràng. Để vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta hãy duyệt qua nhận định của một vài khoa học gia nổi tiếng nhất trong Thế Kỷ 20:
Albert Einstein, cha đẻ của thuyết tương đối, đã phát biểu như sau:
“Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi ý nghĩa về Thượng đế và tránh nói đến những giáo lý và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên cơ sở đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể mà không rời nhất thể. Phật giáo đáp ứng được những yêu cầu ấy. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu được với những nhu cầu hiện đại của khoa học thì đó là Phật Giáo”
[The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism.]
Ngoài ra, Einstein cũng cò đưa ra những nhận xét sau đây:
" PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA HỌC, BỞI VÌ PHẬT GIÁO BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA HỌC. Phật Giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật Giáo đã kích thích con người khám phá ra những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính con người và trong môi trường sống chung quanh. PHẬT GIÁO SIÊU VIỆT THỜI GIAN VÀ MÃI MÃI CÓ GIÁ TRỊ."
Trong nhận định của Albert Einstein, có một điểm quan trọng nói lên những sắc thái đặc thù của Phật Giáo:
"PG KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA HỌC, BỞI VÌ PHẬT GIÁO BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA HỌC."
Tại sao Einstein lại nói như vậy? Chúng ta nên biết rằng Einstein đã được sinh ra và nuôi dưỡng trong cái nôi của tôn giáo Tây phương. Và một bộ óc như của Einstein thì không thể không biết đến cái lịch sử của tôn giáo Tây phương và các luận cứ mà các nhà Thần học bảo vệ tín lý của tôn giáo này đã phải đưa ra để giải thích lại hay từ bỏ những lời mà trước đây họ khẳng định đó là lời của Thượng Đế, không thể sai lầm, để đưa ra một lý thuyết phù hợp với những tiến bộ của khoa học, nhưng thật ra chỉ nhằm mê hoặc số tín đồ với những đầu óc "bảo sao tin vậy". Sau đây là vài thí dụ:
a) Quan niệm trái đất là trung tâm của vũ trụ, trái đất là thế giới duy nhất, mặt trời quay xung quanh trái đất. Đây là những lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh nên không thể sai lầm. Cũng vì vậy mà trong thế kỷ 17 Giordano Bruno bị thiêu sống chỉ vì đưa ra một nhận định khoa học rất chính xác là ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới khác nữa, và Galileo Galilei, tuy là bạn của Giáo Hoàng Urban VIII, cũng bị biệt giam cho đến chết vì dám khẳng định một sự kiện khoa học là trái đất quay xung quanh mặt trời chứ không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất như lời Thượng Đế không thể sai lầm được như trong Thánh Kinh. Sau đó khi mà giáo hội không còn quyền lực để đốt người hay giam người nữa thì các nhà Thần học liền tuyên bố: “Kinh Thánh không có ý định dạy về thiên văn, chỉ dạy về sự sáng tạo của Thượng Đế.”
b) Theo Thánh kinh thì vũ trụ được tạo dựng ra trong 6 ngày, cách đây khoảng từ 6000 tới 10000 năm, tùy theo Thánh Kinh. Ngày nay, những khám phá của khoa học cho biết tuổi của trái đất là vào khoảng 4.5 năm, và tuổi của vũ trụ là vào khoảng 13.7 tỷ năm. Các nhà Thần học bảo vệ tín lý bèn diễn giải rằng một ngày trong sự tạo dựng có thể là nhiều ngàn năm chứ không phải là ngày 24 tiếng đồng hồ như chúng ta thường biết. Đây chỉ là luận điệu ngụy biện để nuôi dưỡng các tín đồ trong vòng ngu dốt chứ đối với những người hiểu biết thì lời ngụy biện trên chỉ chứng tỏ sự xảo quyệt của các người chăn chiên. Vì Thánh Kinh viết rõ là mỗi ngày đều có sáng và tối. Và sáng và tối trên trái đất là do chuyển động quay xung quanh trục Nam Bắc của trái đất đối với mặt trời. Mặt khác, dựa trên chương Sáng Thế Ký trong Thánh Kinh, các khoa học gia bèn hỏi lại: Cây cối được tạo ra trong ngày thứ ba và mặt trời ngày thứ tư. Làm sao cây cối có thể sống được nhiều ngàn năm mà không có ánh sáng mặt trời? Các nhà Thần học bèn giải thích: Thượng đế là bậc toàn trí toàn năng, quyền phép vô cùng làm gì chẳng được. Các khoa học gia chơi khăm bèn hỏi lại: “Nếu Thượng Đế là bậc toàn năng thì tại sao lại phải nghỉ xả hơi vào ngày thứ Bảy sau khi hoàn thành sự tạo dựng trong 6 ngày? Và bắt con người cũng phải nghỉ ngày thứ bảy như Thượng đế? Nhưng con người ngày nay, một số người Việt chúng ta làm 2,3 “job” nghĩa là “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày chủ nhật”.” Câu hỏi này chưa có ai trả lời.
Một mặt khác, trước khi tạo dựng ra vũ trụ ngày nay thì trong dòng thời gian vô tận trước lúc tạo dựng Thượng Đế làm gì và dùng cái gì, để tạo dựng ra vũ trụ? Các nhà Thần học bèn nổi sùng và bảo, trước khi tạo dựng cả thiên thu thì Thượng đế còn bận sáng tạo ra hỏa ngục cho những kẻ nào dám hỏi những câu hỏi xúc phạm đến quyền năng của Thượng đế như vậy. Tuy rằng hầu hết các khoa học gia và những người có đầu óc suy luận chỉ cón có cách cười trước những lời giải thích quanh co cuồng tín trên, nhưng đa số tín đồ vẫn tin và rất lấy làm an tâm và hài lòng về những lời giải thích mà họ bắt buộc phải tin là hợp lý.
Trong khi đó các khám phá mới của khoa học không có ảnh hưởng trái ngược hay mâu thuẫn đối với tư tưởng Phật Giáo, chưa kể là trong nhiều bộ môn các tư tưởng PG còn đi trước khoa học khá xa.
Học Giả Egerton C. Baptist (1915-1983), viết trong cuốn “Siêu Khoa Học của Đức Phật” (Supreme Science of the Buddha) như sau:
Phật Giáo bắt đầu ở chỗ khoa học chấm dứt. Khoa học không cho chúng ta sự bảo đảm gì ở nơi đây. Nhưng Phật Giáo có thể đáp ứng sự thách thức của thuyết nguyên tử, vì kiến thức ở trên mức bình thường của Phật Giáo bắt đầu ở nơi mà khoa học chấm dứt. Và điều này khá rõ ràng cho bất cứ ai đã nghiên cứu về Phật Giáo. Bởi vì, qua thiền định, những cấu tử cỡ nguyên tử tạo thành vật chất đã được thấy và cảm nhận, và những sự khổ, với sự sinh và diệt của chúng, đã tự tạo ra trong cái mà chúng ta gọi là linh hồn hay ngã - ảo tưởng của chấp ngã, như giáo lý của Đức Phật dạy.
[Buddhism begins where science ends
“Science can give no assurance herein. But Buddhism can meet the Atomic Challenge, because the supramundane knowledge of Buddhism begins where science leaves off. And this is clear enough to anyone who has made a study of Buddhism. For, through Buddhist Meditation, the atomic constituents making up matter have been seen and felt, and the sorrow, or unsatisfactoriness (or Dukkha), of their 'arising and passing away' has made itself with what we call a 'soul' or 'atma' - the illusion of Sakkayaditthi, as it is called in the Buddha's teaching.” ]
J Robert Oppenheimer ( 1904-1967), Vật Lý Gia Mỹ, nói rằng:
“Thí dụ, nếu chúng ta hỏi, phải chăng vị trí (electron) không thay đổi? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng vị trí của điện tử thay đổi với thời gian? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đứng yên? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đang di chuyển? chúng ta phải trả lời “không”. Đức Phật đã trả lời như vậy khi được hỏi về tình trạng của cái ngã của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời này không quen thuộc trong truyền thống của khoa học trong thế kỷ 17 và 18.”
[If we ask, for instance, whether the position of the electron remains the same, we must say 'no'; if we ask whether the electron's position changes with time, we must say 'no'; if we ask whether the electron is at rest, we must say 'no'; if we ask whether it is in motion, we must say 'no'. The Buddha has given such answers when interrogated as to the conditions of a man's self after his death; but they are not familiar answers for the tradition of seventeenth and eighteenth century science.]
Sir Edwin Arnold, người nổi tiếng về cuốn thơ Ánh Sáng Á Châu (The Light of Asia), khẳng định rằng:
"Tôi thường nói, và tôi sẽ còn nói hoài, là giữa Phật-Giáo và Khoa- học tân tiến có một mối quan hệ trí thức gần gũi."
(I have often said, and I shall say again and again, that between Buđhism and modern Science there exists a close intellectual bond.)
Bertrand Russell, nhà triết-học và toán-học nổi tiếng hoàn cầu, trong cuốn Lịch sử triết học Tây Phương (History of Western Philosophy) đã viết:
"..Phật-Giáo là một tổ hợp của triết lý suy cứu và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ phương pháp khoa học và theo phương pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật Giáo còn đi xa hơn khoa học vì khoa học bị giới hạn bởi những dụng cụ vật lý."
(..Buddhism is a combination of both speculative and scientific philosophy. It advocates the Scientific method and pursues that to a finality that may be called rationalistic...It takes up where science cannnot lead because of the limitations of the latter's physical instruments.)
Tiến sĩ Radhakrishnan:
"Nếu Phật Giáo hấp dẫn đối với trí óc tân tiến đó là vì Phật Giáo có tinh thần khoa học, thực nghiệm, chứ không phải là dựa trên bất cứ giáo điều nào"
(If Buddhism appealed to the modern mind it was because it was scientific, empirical and not based on any dogma.)
Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi tiếng của Anh Quốc. đã nói như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề mới về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương." (To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2,500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have been given credit for. They studied these problems long ago and found the answers also. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Và Paul Carus, tác giả cuốn sách nổi tiếng "The Gospel of Buddha" , một cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Nhật, Trung Hoa, Đức, Pháp, Tây Ba Nha v...v...và là người đã bảo trợ cho Daisetz Suzuki sang Mỹ để truyền bá đạo Phật mà ông gọi là "Tôn Giáo của Khoa Học" tuy ông không phải là một Phật tử. Paul Carus cho rằng: "Nếu các tôn giáo cổ Tây Phương được tinh khiết hóa bằng cách bỏ đi những sai lầm, nghĩa là những mê tín và điều vô lý trong đó, thì có thể hòa hợp được với Khoa học”. Paul Carus đã tán tụng Đức Phật như là: "Người đầu tiên thực chứng; người đầu tiên phát triển chủ nghĩa nhân đạo; người đầu tiên có tư tưởng tự do cấp tiến; người đầu tiên đả phá Thần tượng; và là nhà tiên tri đầu tiên về tôn giáo của khoa học."
Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao những nhân vật nổi danh trên, và nhiều nhân vật khác nữa mà tôi không thể kể hết ra đây, lại đưa ra những nhận định như vậy.
Nói về Phật Giáo [PG] và Khoa Học [KH] thì trước hết chúng ta cần biết những định nghĩa của PG và của KH. Ở đây, chúng ta bị kẹt vì KH thì có thể định nghĩa được chứ PG thì khó mà có thể có một định nghĩa xác đáng. Vậy thì, trước hết chúng ta hãy xét đến định nghĩa của KH và rồi xem xem trong cái định nghĩa này nó có những tương quan gì với Phật Giáo.
Trần Chung Ngọc