Bà chúa mưa
Ngày đăng: 11:53:33 31-03-2015 . Xem: 985
Dân làng ở xóm cây đa quanh năm lam lũ bên ruộng đồng. Họ kiếm sống được chủ yếu nhờ làm nông và cây lúa là sản phẩm chính. Thiên nhiên ưu đãi và đất đai màu mỡ nên năm nào cũng được mùa. Sau khi gặt hái, ngoài để dành ăn, họ đem sang làng bên cạnh để đổi lấy các loại ngũ cốc khác như rau củ hay khoai sắn. Hai làng ngăn cách nhau bởi một con sông và sử dụng nước sông cho việc trồng trọt của mình. Vào mùa mưa, nước sông dâng cao, thanh niên trai tráng ở hai làng cùng ra đắp đê, ai nấy đều vui vẻ hăng say làm việc và rất đoàn kết. Vào mùa nắng, mực sông xuống thấp, mọi người đào mương dẫn nước vào đồng ruộng, cùng nhau chia sẻ nguồn nước.
Người dân trong hai làng đều tin rằng có một bà chúa mưa chuyên ban phát những giọt mưa xuống trần gian. Bà thường làm việc vào mùa mưa và đi ngao du sơn thủy vào mùa nắng nên mùa mưa thì mưa và mùa nắng thì không mưa. Để cầu mưa thuận gió hòa, trưởng làng cho lập miếu thờ bà chúa mưa, hàng năm đều dâng cúng rất nhiều lễ vật gồm cả thức ăn lẫn thức uống. Hơn chục năm nay, thời tiết thuận lợi, dân làng ăn nên làm ra, đời sống thịnh vượng sung túc, nên ai cũng tin rằng có bà chúa mưa phù hộ, không còn lo sợ gì nữa.
Vào mùa mưa, mây đen vần vũ, sau đó mưa như trút nước, bọn trẻ con tha hồ tắm mưa, bay nhảy khắp nơi. Ngồi trong chòi ngắm nhìn mưa rơi ngoài cánh đồng, nhâm nhi chén trà nóng trong làn gió mát mẻ thì còn gì bằng. Khung cảnh đồng quê được mưa tắm gội như một bức tranh đan xen vào nhau của bầu trời và mặt đất. Sau cơn mưa trời lại sáng, ánh nắng mặt trời chiếu vào những vũng nước và ao hồ làm chúng bốc hơi, bay lên thành mây. Khi mây gặp hơi lạnh thì lại rơi xuống thành mưa, cho nên nói hạt mưa rơi xuống thì hạt mưa cũng bay lên. Nước có ở dòng sông, ruộng đồng và nước cũng ở trên mây, trong không gian bao la. Người dân thì không hiểu nổi qui luật tự nhiên đó nên không hẹn lại đến, nhà nhà khiêng các mẫm lễ vật đầy ắp, đến miếu thờ bà chúa mưa dâng cúng cho bà. Âu cũng là ước nguyện từ sự mong mỏi bình an, mong không thiên tai, không bệnh tật, muốn làm hài lòng bà chúa mưa.
Sau nhiều năm sống trong yên ổn, dân làng bắt đầu ỷ lại sức mạnh của bà chúa mưa nên sử dụng hoang phí nguồn nước, không biết bảo vệ dòng sông được trong sạch. Người ta bắt đầu xả rác xuống lòng sông, thả những con vật chết trôi trên sông, giặt giũ và đi tiểu tiện ở những bờ sông. Nguồn nước duy nhất cho hàng ngàn người ở hai làng trở nên ô nhiễm, mùi hôi thúi bốc lên nồng nặc, nhịp chảy của sông bị tắc nghẽn bởi rác rến và nếu như ai uống phải nước sông này sẽ phát bệnh ngay lập tức. Mùa màng thất bát vì nước sông không còn sạch để trồng trọt. Mùa mưa thì mưa ít hơn, mùa nắng thì nắng gay gắt. Cho đến một năm kia, mùa mưa nhưng không có một giọt mưa nào rơi xuống và nước sông cạn dần vào mùa khô. Thậm chí đi ra giữa lòng sông mà không cần phải bơi. Cái đói rình rập số người sống ở hai ven bờ. Điều này không thể khiến cho hai trưởng làng lo lắng. Có người nghĩ chắc bà chúa mưa mải bận đi chơi nên quên làm mưa ở vùng này, và họ thay phiên nhau dâng cúng lễ vật, tình hình vẫn không ăn thua. Có người nghĩ chắc dân làng bên kia sử dụng nước hoang phí và quá nh iều, hay họ cất giữ nước riêng cho mình nên dòng sông trở nên cạn khô và thế là dân hai bên làng trở nên hiềm khích nhau, không còn vui vẻ như xưa nữa.
Trước nguy kịch của hạn hán xảy ra, trưởng làng yêu cầu các thanh niên đào giếng khắp nơi. Ban đầu các giếng có nước, nhưng sau đó, giếng cũng cạn dần, không còn một giọt nước. Họ tính đến chuyện cho người đi đến các làng xa xôi nơi có nguồn nước dồi dào để thồ nước về làng. Muốn lấy nước thì phải đổi lương thực. Mấy năm nay trời không mưa, lương thực dự trữ cạn dần, lấy đâu ra lúa gạo để mà đổi. Người già chịu không nổi qua đời. Bọn trẻ chịu không nổi sinh bệnh tật. Người ta quay sang ích kỷ với nhau từng giọt nước. Ai kiếm được một ngụm nước thì cất giấu, không cho ai thấy, vì sợ nhà hàng xóm chạy qua xin thì hôm sau lấy gì mà uống.
Nạn khát chưa được giải quyết thì nạn đói kéo đến. Cánh đồng xanh mơn mởn trĩu nặng những hạt lúa vàng ngày nào nay không còn nữa, chỉ chừa lại những đụn rơm cháy đen với những thửa đất nức nẻ. Nếu đi chân không lên đó chắc là phỏng cả chân. Nhà nào cũng có người chết đói. Đói quá người ta quay sang ăn thịt động vật, những con thú nuôi trong nhà. Kiếm cái gì ăn được là họ sẵn sàng bỏ vào bụng. Cái đói cái khát này không biết bao giờ mới vượt qua cho đến một ngày hôm kia.
Một nhóm tu sĩ khoảng mười người trong bộ áo vàng rực đi từng bước nhẹ nhàng vào làng để khất thực. Vị trưởng làng ra tiếp đón. Nhìn cảnh hoang tàn của làng, một tu sĩ hỏi, vì cớ sao dân làng của mình lại sống khổ sở như thế này. Trưởng làng bằng vẻ mặt thiểu não nói, bạch sa môn, làng của con có một con sông thôi nhưng nước đã ô nhiễm không sử dụng được nữa, giếng nước thì cạn khô, mưa thì thôi rơi, không có nước, chúng con không thể trồng trọt, không thể đổi lấy thức ăn, chúng con không có gì để cúng dường cho các vị sa môn cả. Vị tu sĩ mìm cười và nói, nếu sông ô nhiễm thì mình làm sạch dòng sông, nêu giếng nước cạn khô thì mình đào giếng sâu hơn, nếu thiếu lương thực thì mình trồng những loại cây ít sử dụng nước, thiếu thốn nước thì ai có nước chia sẻ với nhau. Sau đó vị sa môn giảng một bài pháp vì sao người dân chịu cảnh hạn hán như vậy. Lí do là mình đã không biết trân quý nguồn nước, không biết gìn giữ môi trường và không biết chia sẻ với nhau khi thiếu thốn. Nếu không chịu thay đổi, tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nên hãy tự cứu mình trước khi bà chúa mưa cứu.
Các sa môn hướng dẫn dân làng cách làm sạch dòng sông, thu dọn rác rến, lọc nước và nấu chín để uống, đồng thời trồng các loại cây ít tiêu tốn nước để có thể làm dịu mát môi trường trở lại. Và điều kỳ diệu đã xảy ra, một trận mưa xối xả rơi xuống, cây cỏ lại mọc lên, chim chóc lại bay về. Dân làng lại có nước để trồng lúa và làng bên kia trồng hoa màu. Sinh mạng của nhiều người đã được cứu. Thực ra không có bà chúa mưa nào cả, không có một lực lượng siêu nhiên nào có thể điều tiết nắng mưa. Sở dĩ mưa thuận gió hòa vì ở khu vực đó con người ăn ở đàng hoàng, thương yêu nhau, biết nhường cơm sẻ áo. Sở dĩ thiên tai bệnh tật vì ở khu vực đó con người ăn ở không đàng hoàng, hiềm khích nhau, giành giựt từng miếng ăn. Cái này gọi là cộng nghiệp mà thôi.
Từng giọt mưa rơi trên mặt đất
Thấm tình yêu ngây ngất cuộc đời
Dù tình thương khi đầy khi vơi
Rải tâm từ muôn nơi khắp chốn.
Những mưu sinh làm ta khốn đốn
Dập vùi thân hao tổn hình hài
Như dòng sông lấp lánh sao mai
Xin hiến tặng cuộc đời từ ái.
Thương nhau đi cho lòng thư thái
Gieo từ bi gặt hái tin yêu
Sống an lạc dù sớm hay chiều
Vẫn vô tư nụ cười đàm tiếu.
Người dân trong hai làng đều tin rằng có một bà chúa mưa chuyên ban phát những giọt mưa xuống trần gian. Bà thường làm việc vào mùa mưa và đi ngao du sơn thủy vào mùa nắng nên mùa mưa thì mưa và mùa nắng thì không mưa. Để cầu mưa thuận gió hòa, trưởng làng cho lập miếu thờ bà chúa mưa, hàng năm đều dâng cúng rất nhiều lễ vật gồm cả thức ăn lẫn thức uống. Hơn chục năm nay, thời tiết thuận lợi, dân làng ăn nên làm ra, đời sống thịnh vượng sung túc, nên ai cũng tin rằng có bà chúa mưa phù hộ, không còn lo sợ gì nữa.
Vào mùa mưa, mây đen vần vũ, sau đó mưa như trút nước, bọn trẻ con tha hồ tắm mưa, bay nhảy khắp nơi. Ngồi trong chòi ngắm nhìn mưa rơi ngoài cánh đồng, nhâm nhi chén trà nóng trong làn gió mát mẻ thì còn gì bằng. Khung cảnh đồng quê được mưa tắm gội như một bức tranh đan xen vào nhau của bầu trời và mặt đất. Sau cơn mưa trời lại sáng, ánh nắng mặt trời chiếu vào những vũng nước và ao hồ làm chúng bốc hơi, bay lên thành mây. Khi mây gặp hơi lạnh thì lại rơi xuống thành mưa, cho nên nói hạt mưa rơi xuống thì hạt mưa cũng bay lên. Nước có ở dòng sông, ruộng đồng và nước cũng ở trên mây, trong không gian bao la. Người dân thì không hiểu nổi qui luật tự nhiên đó nên không hẹn lại đến, nhà nhà khiêng các mẫm lễ vật đầy ắp, đến miếu thờ bà chúa mưa dâng cúng cho bà. Âu cũng là ước nguyện từ sự mong mỏi bình an, mong không thiên tai, không bệnh tật, muốn làm hài lòng bà chúa mưa.
Sau nhiều năm sống trong yên ổn, dân làng bắt đầu ỷ lại sức mạnh của bà chúa mưa nên sử dụng hoang phí nguồn nước, không biết bảo vệ dòng sông được trong sạch. Người ta bắt đầu xả rác xuống lòng sông, thả những con vật chết trôi trên sông, giặt giũ và đi tiểu tiện ở những bờ sông. Nguồn nước duy nhất cho hàng ngàn người ở hai làng trở nên ô nhiễm, mùi hôi thúi bốc lên nồng nặc, nhịp chảy của sông bị tắc nghẽn bởi rác rến và nếu như ai uống phải nước sông này sẽ phát bệnh ngay lập tức. Mùa màng thất bát vì nước sông không còn sạch để trồng trọt. Mùa mưa thì mưa ít hơn, mùa nắng thì nắng gay gắt. Cho đến một năm kia, mùa mưa nhưng không có một giọt mưa nào rơi xuống và nước sông cạn dần vào mùa khô. Thậm chí đi ra giữa lòng sông mà không cần phải bơi. Cái đói rình rập số người sống ở hai ven bờ. Điều này không thể khiến cho hai trưởng làng lo lắng. Có người nghĩ chắc bà chúa mưa mải bận đi chơi nên quên làm mưa ở vùng này, và họ thay phiên nhau dâng cúng lễ vật, tình hình vẫn không ăn thua. Có người nghĩ chắc dân làng bên kia sử dụng nước hoang phí và quá nh iều, hay họ cất giữ nước riêng cho mình nên dòng sông trở nên cạn khô và thế là dân hai bên làng trở nên hiềm khích nhau, không còn vui vẻ như xưa nữa.
Trước nguy kịch của hạn hán xảy ra, trưởng làng yêu cầu các thanh niên đào giếng khắp nơi. Ban đầu các giếng có nước, nhưng sau đó, giếng cũng cạn dần, không còn một giọt nước. Họ tính đến chuyện cho người đi đến các làng xa xôi nơi có nguồn nước dồi dào để thồ nước về làng. Muốn lấy nước thì phải đổi lương thực. Mấy năm nay trời không mưa, lương thực dự trữ cạn dần, lấy đâu ra lúa gạo để mà đổi. Người già chịu không nổi qua đời. Bọn trẻ chịu không nổi sinh bệnh tật. Người ta quay sang ích kỷ với nhau từng giọt nước. Ai kiếm được một ngụm nước thì cất giấu, không cho ai thấy, vì sợ nhà hàng xóm chạy qua xin thì hôm sau lấy gì mà uống.
Nạn khát chưa được giải quyết thì nạn đói kéo đến. Cánh đồng xanh mơn mởn trĩu nặng những hạt lúa vàng ngày nào nay không còn nữa, chỉ chừa lại những đụn rơm cháy đen với những thửa đất nức nẻ. Nếu đi chân không lên đó chắc là phỏng cả chân. Nhà nào cũng có người chết đói. Đói quá người ta quay sang ăn thịt động vật, những con thú nuôi trong nhà. Kiếm cái gì ăn được là họ sẵn sàng bỏ vào bụng. Cái đói cái khát này không biết bao giờ mới vượt qua cho đến một ngày hôm kia.
Một nhóm tu sĩ khoảng mười người trong bộ áo vàng rực đi từng bước nhẹ nhàng vào làng để khất thực. Vị trưởng làng ra tiếp đón. Nhìn cảnh hoang tàn của làng, một tu sĩ hỏi, vì cớ sao dân làng của mình lại sống khổ sở như thế này. Trưởng làng bằng vẻ mặt thiểu não nói, bạch sa môn, làng của con có một con sông thôi nhưng nước đã ô nhiễm không sử dụng được nữa, giếng nước thì cạn khô, mưa thì thôi rơi, không có nước, chúng con không thể trồng trọt, không thể đổi lấy thức ăn, chúng con không có gì để cúng dường cho các vị sa môn cả. Vị tu sĩ mìm cười và nói, nếu sông ô nhiễm thì mình làm sạch dòng sông, nêu giếng nước cạn khô thì mình đào giếng sâu hơn, nếu thiếu lương thực thì mình trồng những loại cây ít sử dụng nước, thiếu thốn nước thì ai có nước chia sẻ với nhau. Sau đó vị sa môn giảng một bài pháp vì sao người dân chịu cảnh hạn hán như vậy. Lí do là mình đã không biết trân quý nguồn nước, không biết gìn giữ môi trường và không biết chia sẻ với nhau khi thiếu thốn. Nếu không chịu thay đổi, tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nên hãy tự cứu mình trước khi bà chúa mưa cứu.
Các sa môn hướng dẫn dân làng cách làm sạch dòng sông, thu dọn rác rến, lọc nước và nấu chín để uống, đồng thời trồng các loại cây ít tiêu tốn nước để có thể làm dịu mát môi trường trở lại. Và điều kỳ diệu đã xảy ra, một trận mưa xối xả rơi xuống, cây cỏ lại mọc lên, chim chóc lại bay về. Dân làng lại có nước để trồng lúa và làng bên kia trồng hoa màu. Sinh mạng của nhiều người đã được cứu. Thực ra không có bà chúa mưa nào cả, không có một lực lượng siêu nhiên nào có thể điều tiết nắng mưa. Sở dĩ mưa thuận gió hòa vì ở khu vực đó con người ăn ở đàng hoàng, thương yêu nhau, biết nhường cơm sẻ áo. Sở dĩ thiên tai bệnh tật vì ở khu vực đó con người ăn ở không đàng hoàng, hiềm khích nhau, giành giựt từng miếng ăn. Cái này gọi là cộng nghiệp mà thôi.
Từng giọt mưa rơi trên mặt đất
Thấm tình yêu ngây ngất cuộc đời
Dù tình thương khi đầy khi vơi
Rải tâm từ muôn nơi khắp chốn.
Những mưu sinh làm ta khốn đốn
Dập vùi thân hao tổn hình hài
Như dòng sông lấp lánh sao mai
Xin hiến tặng cuộc đời từ ái.
Thương nhau đi cho lòng thư thái
Gieo từ bi gặt hái tin yêu
Sống an lạc dù sớm hay chiều
Vẫn vô tư nụ cười đàm tiếu.
Mục Đọc Sách
-
Cô bé bán vé số
-
Cậu bé đánh giày
-
Hoàng hậu Tấm
-
Bạch mã hoàng tử
-
Đền đáp tiếp sự
-
Búp bê bằng giấy
-
Sự tích cái chuông
-
Ông thần đèn
-
Em bé mồ côi
-
Chiếc lá đầu tiên
-
Câu chuyện khác về nàng lọ lem
-
Món quà màu xanh
-
Chim chìa vôi
-
Bà nội
-
Cô bé không quàng khăn đỏ
-
Bài thơ dở dang
-
Bà chúa mưa
-
Chuột nhắt phiêu lưu ký