Phật pháp nhiệm mầu
Quê tôi vùng nông thôn nghèo, thuở đó làng chưa có trường nên trẻ con trong làng ít đứa được đi học. Tôi khá lớn tuổi mới xin đi học. Ngày ngày tôi đến lớp một mình vì lớp ba học ở đình làng trong khi mấy đứa cùng xóm học ở trường.
Hết tiểu học phần, nhiều đứa nghỉ học ở nhà làm ruộng hay đi học nghề, tôi là một trong số ít đứa được lọt vào trường trung học công lập dành cho nam sinh duy nhất thành phố Huế thời bấy giờ. Trong lớp học, bên cạnh hầu hết con nhà thành phố ăn trắng mặc trơn, nhiều đứa học giỏi, tôi thấy lẻ loi và lắm khi tủi phận vì thiếu thốn mọi bề.
Tôi còn nhớ mãi giờ học Tập đọc tiếng Pháp với thầy Nê. Trước giờ học thầy viết sẵn bài học lên bảng. Đầu tiên thầy xóa mỗi câu một chữ, kêu một hai đứa lên đọc lại. Xóa dần mỗi câu hai ba bốn chữ rồi xóa dần cho đến hết bài. Cứ thế thầy gọi lần lượt từng đứa lên đọc cả bài. Nếu may được kêu lên khi mới xóa mấy chữ đầu còn dễ nhớ đọc được, nhưng đến lượt thứ năm thứ sáu trên bảng chỉ còn nửa số chữ mà bị gọi lên thì chỉ có nước đứng chào cờ. Tôi ngồi nín thở cố thu mình lại như cái bóng mờ nhưng đâu tránh được! Và bao lần bị kêu đều bị đứng như trời trồng. Lạ thay nhiều đứa đứng lên đọc ro ro. Té ra sau này mới biết tụi nó có sách học thuộc trước.
Tôi quyết không chịu thua, ngày ngày nỗ lực cặm cụi học… Mỗi ngày đi học về tôi ghé nhà sách Tân Hoa đường Trần Hưng Đạo, nhà sách Bình Minh gần chân cầu Trường Tiền lén mở sách chép bài đem về học. Nhiều khi bị phát hiện, mấy cô bán sách đuổi như đuổi tà nhưng cứ liều…
Sau đó do thời cuộc, tôi nghỉ học thi vào sư phạm. Trúng được vào sư phạm đâu phải chuyện dễ khi một chọi hai mươi. Trong một tập thể nhiều đối tượng chênh lệch về tuổi tác và trình độ, có đứa hơn tôi bốn năm tuổi, tôi cố sức học để khỏi bị coi thường và sau khi ra trường được dạy gần nhà. Nhưng chuyện đời lắm éo le, tôi tốt nghiệp khá cao nhưng phải đi dạy ngoại tỉnh. Vào đất Quảng Nam xa lạ, bao năm lặn lội hết núi rừng đến làng quê. Khổ ơi là khổ! Do số phận hay ông trời bất công? Tôi băn khoăn tự hỏi nhưng câu trả lời vẫn còn phía trước.
Biến cố Mậu thân (1968) đẩy nhiều thanh niên ra chiến trường. Tôi cũng bị đi lính và sau hai năm mới được trả về ngành giáo dục. Rồi sau năm 1975 đời sống khó khăn, ngày đêm lo sợ… Tôi không ngừng phấn đấu giảng dạy, lao động tốt để được tiếp tục công tác dạy học và con cái được đi học. Làm việc quá sức, cơ thể chịu hết nổi sinh đủ thứ bệnh. Khổ chi là khổ! Tôi tìm đến triết học Đông Tây để cố tìm ra nguyên nhân nhưng câu giải đáp vẫn bế tắc.
Cũng như nhiều giáo viên thời đó thuộc diện lưu dụng, tôi bị chuyển qua dạy xóa mù chữ cho người lớn tuổi, nâng cao trình độ học vấn cho thanh niên và cán bộ, trong đó có mấy sư chú và sư cô tu học ở chùa đến xin học.
Cơ duyên đưa đẩy đời tôi rẽ qua khúc ngoặt, tiếp cận giáo lý đạo Phật. Những lời Đức Phật dạy khai mở cho tôi tìm ra câu trả lời mà bấy lâu trăn trở. Thì ra hoàn cảnh sướng khổ mỗi người không do số phận hay ông trời nào định đoạt mà do nghiệp của họ đã tạo ra trong quá khứ. Những hành vi, ý nghĩ, lời nói, việc làm tốt xấu hình thành nên những thói quen thiện ác huân tập lâu đời lâu kiếp thành nghiệp lực chi phối lại cuộc sống sướng khổ mỗi người. Tôi sống theo lời Phật dạy, bỏ ác làm lành, từ bi hỷ xả nên nhẹ nhàng hơn, gia đình con cái từng bước ổn định, sức khỏe tôi được phục hồi.
Cuộc sống có biết bao mầu nhiệm làm sao nói hết được! Quay về nương tựa Tam bảo đã mang lại cho tôi nhiều lợi lạc đến không ngờ. Chút trải nghiệm trong quá trình thực hành lời Đức Phật dạy tôi ghi chép lại để mong chia sẻ cùng bạn bè và con cháu. Nếu ai đó có sự đồng cảm thì cũng là duyên hạnh ngộ. Tôi cúi đầu thâm tạ ơn sâu của Đức Phật và vô vàn biết ơn cuộc đời.
Theo Võ Văn Lân