Cây cỏ mực (cỏ nhọ nồi) chữa nhiều bệnh nan y
HSĐV - Cỏ mực, (cỏ nhọ nồi) một cây thuốc Nam rất thông thường mọc hoang hầu như khắp nơi, hiện là một dược liệu đang được nghiên cứu về khả năng bảo vệ gan, trừ được nọc độc của một số loài rắn nguy hiểm và một số bẹnh nan y, bệnh thông thường khác rất hiệu quả.
Tại Ấn độ, Cỏ mực là một trong mười cây hoa bổ ích (Dasapushpam), đã được dùng trong các mỹ phẩm thoa tóc, bôi da từ thời xa xưa.. đồng thời làm nguyên liệu để lấy chất phẩm đen nhuộm tóc.
Tại Java, lá cây được dùng làm thực phẩm..
Cây cỏ mực được ghi trong các sách thực vật và dược liệu Âu-Mỹ dưới tên Eclipta alba , họ thực vật Compositae (Asteriacea). Tên đồng nghĩa là Eclipta prostrata. Sách của J. Duke (Handbook of Medicinal Herbs), Võ văn Chi (Từ điển Cây thuốc Việt Nam) đều ghi là 2 tên chỉ chung một cây, riêng sách của Đỗ tất Lợi lại cho là 2 cây khác nhau (?) : Eclipta alba được cho lá Cò nhọ nồi (Cò mực) còn Eclipta prostrata..lại cho là Cây cúc áo(?)
Đặc tính thực vật :
Cỏ mực, còn gọi là Cỏ nhọ nồi, thuộc loại thân thảo hằng niên, cao trung bình 0.2-0.4 m, có khi đến 0.8 m, mọc bò , hoặc có khi gần như thẳng đứng, có lông trắng cứng, thưa. Thân màu lục hay nâu nhạt hay hơi đỏ tía. Lá mọc đối, phiến lá dài và hẹp cở 2.5 cm x 1.2 cm. Mép lá nguyên hay có răng cưa cạn, hai mặt lá đều có lông. Hoa mầu trắng hợp thành đầu, mọc ở kẽ lá hay đầu cành, có hoa cái bên ngoài và hoa lưỡng tính ở giữa. Quả thuộc loại bế quả cụt đầu, có 3 cạnh màu đen dài chừng 3mm
Cỏ mực trong Dược học dân gian :
Cỏ mực đã được dùng rất phổ biến trong dân gian tại Ấn độ, Pakistan, Việt Nam, Trung Hoa và các Quốc gia vùng Nam Á.
1- Tại Ấn Độ :
Cỏ mực được dùng trị sói đầu, nấm lác đồng tiền, thuốc nhuộm tóc và trị gan, lá lách phù trướng; sưng gan-vàng da và làm thuốc bổ tổng quát. Cây cũng được dùng trị ho, chảy máu miệng, ăn khó tiêu, choáng váng, chữa đau răng, giúp lành vết thương..Rễ dùng gây nôn mửa, xổ. Lá giã nát đắp trị vết cắn do bò cạp.
2- Tại Pakistan :
Eclipta alba, được gọi tại Pakistan là Bhangra, bhringaraja, được dùng trong dân gian dưới nhiều dạng. Cây tươi được dùng làm thuốc bổ chung, giúp giảm sưng gan và lá lách, trị bệnh ngoài da, trị suyễn, khi dùng trị bệnh gan liều nước sắc sử dụng là 1 thìa cà phê hai lần mỗi ngày; cây giã nát, trộn với dầu mè được dùng để đắp vào nơi hạch sưng, trị bệnh ngoài da..Lá dùng trị ho, nhức đầu, hói tóc, gan và lá lách sưng phù, vàng da.
3- Tại Trung Hoa :
Eclipta prostrata , hay Mò hàn lian : Lá được cho là giúp mọc tóc. Toàn cây làm chất chát cầm máu, trị đau mắt, ho ra máu, tiểu ra máu; đau lưng, sưng ruột, sưng gan, vàng da.. Lá tươi được cho là có thể bảo vệ chân và tay nông gia chống lại sưng và nhiễm độc khi làm việc đồng-áng, tác dụng nãy theo Viện Y học Chiang-su là do ở thiophene trong cây.
4- Tại Việt Nam :
Cỏ mực được dùng trị xuất huyết nội tạng như ho ra máu, xuất huyết ruột, chảy máu răng, nướu, lợi ; trị sưng gan, sưng bàng quang, sưng đường tiểu trị mụn nhọt đầu đinh, bó ngoài giúp liền xương. Cách dùng thông thường là dùng khô, sắc uống; khi dùng bên ngoài lá tươi đâm nát đắp nơi vết thương. Thợ nề dùng cỏ mực vò nát để trị phỏng do vôi.
Thành phần hóa học :
Cỏ mực chứa :
- Các glycosides triterpene và Saponins : 6 glycosides loại oleanane : Eclalbasaponins I-VI ( 2 chất mới ly trích được năm 2001 được tạm ghi là XI và XII) , Alpha và Beta-amyrin , Ecliptasaponin D Eclalbatin.
- Các Flavonoids và Isoflavonoids : Lá và đọt lá chứa Apigenin, Luteolin và các glucosides liên hệ. Toàn cây chứa các isoflavonoids như Wedelolactone, Desmethylwedelolactone, Isodemethylwedelolac tone, Strychnolactone
- Aldehyd loại terthienyl : Ecliptal ; L-terthienyl methanol; Wedelic acid.
- Sesquitepne lactone : Columbin.
- Các sterols như Sitosterol, Stigmasterol..
- Các acid hữu cơ như Ursolic acid, Oleanolic acid, Stearic acid, Lacceroic acid ; 3,4-dihydroxy benzoic acid; Protocateuic acid..
Đặc tính dược học :
1. Tác dụng chống sưng-viêm : Trích tinh Eclipta alba, khi thử nghiệm trên các thú vật bị gây sưng phù cấp tính và kinh niên, cho thấy khả năng ức chế sự sưng đến 58.67 % (Journal of Research and Education in Indian Medicine Số 9-1990). Nơi chuột, dung dịch trích bằng nước-alcohol ức chế làm giảm được phản ứng gây ra bởi acid acetic đến 35-55 % khi dùng liều uống 200 mg/kg. Bột lá Eclipta alba dùng liều uống (1500 mg/kg) có tác dụng chống sưng hữu hiệu (ức chế đến 47.7%) so sánh với indomethacin (ức chế được 51%) : Dược thảo có hiệu năng mạnh hơn vào giai đoạn thứ 2 của tiến trình sưng viêm, nên có lẽ hoạt động bằng ức chế sự tạo prostaglandins và kinins (Fitoterapia Số 58-1987)
2. Tác dụng bảo vệ gan : Trích tình Cỏ mực bằng ethanol: nước (1:1) đã được nghiên cứu trong thử nghiệm tác hại nơi gan gây ra bởi tetrachloride Carbon ( thử nơi chuột) ghi nhận trích tinh tão được sự bảo vệ gan bằng cách giúp điều hòa nồng độ của các men có liên hệ đến việc biến dưỡng thuốc nơi ty thể gan. (Journal of Ethnopharmaco logy Số 70-2000) Eclipta alba còn có hoạt tính mạnh hơn khi dùng phối hợp với Cây Chó đẻ (Phyllanthus niruri) và Curcumin (từ Nghệ) theo tỳ lệ 25:15:10 (P.niruni : E. alba : Curcumin). Nồng độ lipid cao trong gan và bilirubin trong huyết thanh sụt giảm và trở về mức bình thường. Hỗn hợp này làm tăng mức độ triglyceride trong máu, tăng tiền chất-beta-lipoproteins và cholesterol. Trích tinh bằng ethanol từ cây E. alba tươi cho thấy một tác dụng bảo vệ gan đáng kể (tùy thuộc vào liều sử dụng) trong các trường hợp hư gan do CCl4 gây ra nơi chuột thử nghiệm, không thấy dấu hiệu ngộ độc dù cho dùng đến 2 gram/ kg ở cả dạng uống lẫn chích qua màng phúc toan (Phytothera py Research Số 7-1993). Thử nghiệm nơi chuột bạch tạng ghi nhận tác dụng bảo vệ gan xẩy ra từ liều 100mg/ kg.
Các hiệu ứng bảo vệ gan của dịch chiết bằng nước đông khô cũng được nghiên cứu trong các trường hợp sưng gan cấp tính gây ra nơi chuột nhắt bằng 1 liều CCl4 hay acetaminophen và nơi chuột nhà bằng beta-D-galactosamin : Kết quả cho thấy có tác dụng ức chế đáng kể trong phản ứng tạo sự tăng transaminase trong máu gây ra bởi CCl4 nơi chuột nhắt và galactosamine nơi chuột nhà, nhưng không có hiệu ứng trong trường hợp hư hại gan do acetaminophen.
3. Tác dụng làm hạ huyết áp : Hổn hợp polypeptides của E. alba có tác dụng hạ huyết áp nơi chó. Columbin, trích từ dịch chiết toàn cây bằng ethanol cho thấy khả năng hạ huyết áp rõ rệt nơi chuột đã bị gây mê.
4. Khả năng trung hòa tác dụng của nọc rắn :
Nghiên cứu tại ĐH Universidade Federal do Rio de Janeiro (Ba tây) (1989) ghi nhận dịch chiết bằng ethanol cúa E.alba có khả năng trung hòa các hoạt tính nguy hại (đến gây chết người) của nọc độc loài rắn chuông Nam Mỹ (Crotalus durissus terrificus). Các mẫu dịch chiết tương đương với 1.8 mg trích tinh khô dùng cho mỗi chuột thử có thể trung hoà được đến 4 liều nọc độc gây tử vong (LD 50 = 0.08 micro gram nọc/ g thú vật : Dịch chiết Eclipta ức chế được sự phóng thích creatinine kinase từ bắp thịt của chuột khi tiếp xúc với nọc rắn thô. (PubMed – PMID : 2799833).
Một nghiên cứu khác, cũng tại Ba tây (1994) , khảo sát các tác dụng chống độc tính của nọc rắn trên bắp thịt và chống chảy máu, của 3 chất trong thành phần Cỏ mực : wedelolactone, WE; stigmasterol, ST và sitosterol, SI. Thử nghiệm dủng nọc độc của các loài rắn lục Bothrops jararacussu, Lachesis muta.., độc tố tinh khiết hóa bothrops toxin, bothropasin và crotoxin..Sự hữu hiệu được đo lường bằng tốc độ phóng thích creatine kinase từ cơ bắp chuột.. Kết quả cho thấy (in vitro) độc tính trên bắp thịt của nọc rắn crotalid và các độc tố tinh khiết đều bị trung hòa bởi WE và dịch trích Cỏ mực (EP), cả WE lẫn EP đều ức chế tác dụng gây chảy máu của nọc Bothrops, ức chế tác dụng của men phospholipase A2 trong crotoxin, và tác dụng ly giải protein của nọc B.jararaca.(PubMed – PMID 8079371)
Cỏ mực trong Đông Y cổ truyền :
Đông Y cổ truyền gọi Cỏ mực là Hạn Liên Thảo (Han Lian Cao), hay Mặc Hạn Liên. (Nhật dược gọi là Kanrensò) Dược liệu là toàn cây thu hái vào đầu mùa thu. Cây mọc hoang tại các vùng Giang Tây, Triết Giang, Quảng Đông.. được cho là có vị ngọt/ chua, tính mát ; tác dụng vào các kinh mạch thuộc Can, Thận.
Han Lian Cao có những tác dụng :
- Dưỡng và Bổ Âm-Can và Âm-Thận: dùng trị các chứng suy Âm Can và Âm Thận với các triệu chứng choáng váng, mắt mờ, chóng mặt, tóc bạc sớm ; thường dùng phối hợp với Nữ trinh tử (Nu zhen zi= Fructus Ligustri lucidi) .
- Lương Huyết và Cầm máu (Chỉ huyết) : trị các chứng Âm suy với các triệu chứng chảy máu do ‘Nhiệt’ tại Huyết như ói ra màu, ho ra màu, chảy máu cam, phân có máu, chảy màu tử cung và tiểu ra máu. Để trị tiểu ra máu cỏ mực được dùng chung với Mả đề (Xa tiền thảo=Che qian cao (Plantaginis) và Rễ cỏ tranh (Bạch mao căn= Bai mao gen (Rhizoma Imperatae); để trị phân có máu, dùng chung với Địa du= di yu (Radix Sanguisorbae); để trị ói ra màu, dùng chung với Trắc bách diệp xấy khô = Ce bai ye (Cacumen Biotae)..
Đây là loại cỏ hoang dại, mọc ở mọi nơi như: ven đường, bờ mương, bờ ruộng, bờ ao, trong vườn…
Để chữa chứng chảy máu mũi đêm ngày không dứt, y thư cổ Nam dược thần hiệu khuyên lấy cỏ mực giã nát, đắp vào giữa mỏ ác và trên trán.
Cỏ mực (rau mực) có tên khoa học là Eclipta alba Hassk, thuộc họ cúc Asteraceae. Gọi là cỏ mực vì khi vò nát có nước chảy ra như mực đen. Người ta còn gọi nó là cây nhọ nồi, dễ gây nhầm lẫn với vị thuốc nhọ nồi lấy từ nồi chảo. Tên chữ Hán là hạn liên thảo (cây có đài quả như sen).
Cỏ mực tính lạnh, vị ngọt chua, không độc, có tác dụng lương huyết (mát huyết), cầm máu, thanh can nhiệt, dưỡng thận âm, làm đen râu tóc. Chủ trị: xuất huyết nội tạng (chảy máu dạ dày, tiêu tiện ra máu, thổ huyết do lao, rong kinh), kiết lỵ, viêm gan mạn, chấn thương sưng tấy lở loét, mẫn ngứa, (uống trong, rửa ngoài).
Sách Thần nông bản thảo gọi cỏ mực “là thuốc cầm máu nổi tiếng”. Sách Đường bản thảo viết, người bị chảy máu dữ dội dùng cỏ mực đắp sẽ cầm, bôi nước lên đầu thì tóc sẽ mọc lại nhanh chóng. Điền nam bản thảo cho rằng, rau mực làm chắc răng, đen tóc chữa khỏi 9 loại trĩ. Bản kinh (ra đời cách đây 2000 năm) viết: “Máu chảy không cầm, đắp rau mực cầm ngay”.
Kỵ dùng cỏ mực khi có âm hư không có nhiệt, tỳ vị hư hàn tiêu chảy. Ngày nay, vị thuốc này được dùng nhiều trong điều trị sốt xuất huyết muỗi truyền, ung thư và nhiều bệnh khác.
Cỏ mực (nhọ nồi) chữa được rất nhiều bệnh
Viện Dược liệu từng nghiên cứu tác dụng cầm máu và độc tính của cỏ mực và nhận thấy nó có khả năng chống lại tác dụng của dicumarin (thuốc chống đông), cầm máu ở tử cung, tăng trương lực tử cung. Cỏ mực không gây giãn mạch, không hạ huyết áp, nhưng có thể gây sẩy thai.Cây cỏ mực_ một dược liệu quý<Cỏ mực là loài mọc hoang khắp nơi ở nước ta. Đó là loài cây nhỏ, thân có lông; lá mọc đối hình xoan dài, có lông hai mặt; hoa trắng nhỏ; đặc điểm nổi bật của cây này là khi vò nát có màu đen như mực – cho nên có tên gọi là “cỏ mực”. Trong dân gian thường gọi là ” cỏ nhọ nồi”, còn gọi là “hạn liên thảo”, “mặc hạn liên”, “kim lăng thảo”… Tên khoa học là Eclipta prostrata L. [E. Alba (L.) Hassk].Các nghiên cứu trong y học hiện đại đã phát hiện thấy trong cỏ mực có saponin, tanin, chất đắng, caroten, ancaloit, tinh dầu, vitamin E, vitamin A… Cỏ mực có những tác dụng dược lý như sau:
1. Cầm máu: Chất tanin trong cỏ mực có tác dụng làm tăng tốc độ đông máu. Các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành thực nghiệm: cắt đứt động mạch đùi chó, dùng bột cỏ mực tán mịn đắp lên chỗ đứt, ấn nhẹ vào, thấy có tác dụng cầm máu tốt.
2. Diệt khuẩn, tiêu viêm: Có tác dụng diệt một số tụ cầu khuẩn, trực khuẩn bạch hầu (bacillus diphtheria), trực khuẩn viêm ruột (bacillus enteritidis) và có tác dụng nhất định đối với amip. Được dùng để chữa trị một số bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ngoài da.
3. Tăng cường miễn dịch, ức chế ung thư: Kích hoạt hệ miễn dịch, đặc biệt là đối với tế bào limphô T (T – lymphocytes); có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, đặc biệt đối với ung thư dạ dày.
4. Dưỡng da, đen tóc: Cỏ mực có tác dụng cải thiện quá trình tuần hoàn máu ngoài da (đặc biệt là da đầu), giúp cho da thịt, đầu tóc được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, nhờ vậy da dẻ trở nên mịn màng, râu tóc thêm đen mượt.
Còn theo y học cổ truyền: Cỏ mực có vị ngọt, chua; tính mát; vào các kinh Can và Thận; có tác dụng tư âm (nuôi âm), bổ thận; làm mịn da, đen tóc, chắc răng; lương huyết (mát máu), chỉ huyết (cầm máu). Sách Tân Tu Bản Thảo viết: “… vết thương đang chảy máu, đắp cỏ mực vào máu sẽ lập tức cầm lại; lấy nước cốt bôi lên lông mày và tóc thì sẽ mọc tốt hơn”. Còn sách Thiên Kim Nguyệt Lệnh viết: “Lấy nước cốt cỏ mực, trộn với nước gừng và mật, uống vào sẽ làm cho râu tóc đang bạc hóa đen”.
Hiện tại cỏ mực thường sử dụng để chữa da thô nháp, da mặt đen sạm, tóc bạc sớm, răng đau lung lay, âm hư huyết nhiệt, chóng mặt hoa mắt, nôn ra máu, đại tiện ra máu, can thận âm hư…
CÔNG DỤNG CỦA CÂY CỎ MỰC
Cỏ mực là loại mọc hoang khắp nơi trong nước. Loài cỏ nhỏ, nằm sát mặt đất trông đơn giản nhưng có công dụng chữa được một số bệnh.
Cỏ mực thân nhỏ, lá mọc đối hình xoan dài, có lông hai mặt, hoa trắng nhỏ. Đặc điểm của cỏ này là khi vò nát có màu đen như mực. Nó còn có tên là hạn liên thảo, mặc hạn liên, kim lăng thảo… Cỏ mực có những tác dụng dược lý như: cầm máu (chất tanin trong cỏ mực có tác dụng làm tăng tốc độ đông máu); diệt khuẩn, tiêu viêm, được dùng để chữa trị một số bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ngoài da; tăng cường miễn dịch; dưỡng da, đen tóc (cỏ mực cải thiện quá trình tuần hoàn máu ngoài da, nhất là da đầu, giúp da dẻ trở nên mịn màng, râu tóc thêm đen)…
Theo y học cổ truyền, cỏ mực có vị ngọt, chua, tính mát, đi vào các kinh can và thận, có tác dụng tư âm, bổ thận, giúp da mịn, tóc đen, răng chắc, lương huyết (mát máu), chỉ huyết (cầm máu). Dưới đây là một số phương thuốc thực tế dùng cỏ mực chữa các bệnh như sau:
- Chữa chảy máu mũi (máu cam): lấy độ 20-25 gr cỏ mực, 20 gr ngó sen, đem sắc (nấu) lấy nước, chia 2 lần dùng hết trong ngày (buổi sáng và chiều). Dùng liên tục khoảng 20 ngày.
- Chữa chóng mặt, hoa mắt do can thận âm hư tổn: dùng cỏ mực 15 gr, vị thuốc sinh địa 15 gr, đem sắc nước chia làm hai lần dùng hết trong ngày. Dùng liên tục 30 ngày. Để chữa râu tóc bạc sớm, tóc rụng người ta cũng dùng bài thuốc như trên.
- Chữa ho ra máu: lấy 25 gr cỏ mực, 20 gr vị thuốc bạch cập, 10 gr a giao. Đem cỏ mực và bạch cập sắc lấy nước, cho ra chén, sau đó cho a giao vào trộn đều. Chia ra làm hai lần dùng hết trong ngày, dùng liên tục trong 7 ngày.
- Phòng và chữa viêm da: lấy một nắm cỏ mực còn tươi đem rửa sạch, vò nát rồi sát lên chân và tay cho đến khi màu da chuyển sang tím đen nhạt.
- Chữa sỏi thận, tiểu ra máu: dùng 25 gr cỏ mực, 15 gr xa tiền thảo, một ít đường trắng vừa đủ. Đem cỏ mực và xa tiền thảo sắc lấy nước. Khi uống rót nước thuốc ra chén, rồi cho thêm đường vào cho dễ uống. Dùng hết lượng trên trong ngày thay cho nước trà và dùng liên tục khoảng 20 ngày.
- Hỗ trợ trong điều trị chứng giảm tiểu cầu máu: dùng 10 gr cỏ mực, 5 gr nhân sâm, một ít gạo tẻ, đường trắng vừa đủ. Nhân sâm cắt thành lát mỏng, hấp chín. Cỏ mực rửa sạch, sắc lấy nước để nấu cháo. Sau khi cháo chín, cho nhân sâm vào, thêm chút đường cho đủ ngọt. Dùng mỗi ngày 1 lần, ăn thay bữa điểm tâm, dùng liên tục trong khoảng 5 ngày.
- Thổ huyết và chảy máu cam: Dùng cỏ mực cả cành và lá tươi giã lấy nước để uống.
- Tiêu ra máu: Cỏ mực nướng trên miếng ngói sạch cho khô, tán bột. Mỗi lần dùng 2 chỉ (8g) với nước cơm (Gia tàng kinh nghiệm phương).
- Tiểu ra máu: Cỏ mực, mã đề 2 vị bằng nhau, giã lấy nước ngày uống 3 chén lúc đói (Y học chân truyền). Hoặc nấu cháo cỏ mực (100 g) với 3 lát gừng.
- Trĩ ra máu: Một nắm cỏ mực để nguyên rễ, giã nhuyễn, cho vào 1 chén rượu nóng, thành dịch đặc vừa uống trong, vừa đắp bã ngoài (Bảo thọ đường phương).
- Chảy máu dạ dày-hành tá tràng: Cỏ mực 50 g, bạch cập 25 g, đại táo 4 quả, cam thảo 15g sắc uống, ngày 1 thang chia làm 2 lần.
- Vết đứt chém nhỏ chảy máu: Một nắm cỏ mực sạch nhai hoặc giã nhuyễn đắp lên vết thương.
- Chữa râu tóc bạc sớm: Cỏ mực với lượng tùy dùng, rửa sạch, nấu cô đặc thành cao rồi cho nước gừng, mật ong với lượng vừa phải, cô lại lần nữa. Cho vào lọ, khi dùng lấy 1-2 thìa canh hòa nước đun sôi còn ấm hoặc cho ít rượu gạo để uống. Ngày 2 lần, cao này có tác dụng bổ thận, ích tinh huyết.
Hoặc: Cỏ mực 1-2 kg, cho vào nước ép lấy dịch đặc trộn với bột nữ trinh tử đã được chế sẵn như sau: nữ trinh tử 300-1.000 g ngâm rượu 1 ngày, bóc vỏ, rang khô tán bột. Viên hoàn bằng mật ong. Mỗi lần uống 10 g. Ngày uống 3 lần với rượu gạo hâm nóng. Hoàn này bổ can thận, xanh đen râu tóc, khỏi đau lưng gối (Nữ trinh tử không phải trinh nữ tử).
- Chữa di mộng tinh (do tâm thận nóng): Cỏ mực sấy khô, tán bột. Uống ngày 8 g với nước cơm, hoặc sắc cỏ mực để uống ngày 30 .
- Rong kinh: Nếu nhẹ, lấy cỏ mực tươi giã vắt lấy nước cốt uống hoặc cỏ mực khô sắc nước uống. Nếu huyết ra nhiều, cần phối hợp thêm trắc bá diệp hoặc cây huyết dụ
Trẻ tưa lưỡi: Cỏ mực tươi 4 g, lá hẹ tươi 2 g giã nhuyễn, lấy nước cốt hòa mật ong chấm lên lưỡi cách 2 giờ 1 lần.
- Cỏ mực chữa sốt xuất huyết:
Viện Đông y cùng bệnh viện quận Đống Đa từng dùng cỏ mực chống dịch sốt xuất huyết muỗi truyền vào năm 1969, với 230 bệnh nhân nội trú, kết quả khỏi bệnh 99,6%. Viện Quân y 13, quân khi 5 cũng dùng mấy bài thuốc Nam dạng xiro có thành phần cỏ mực để chữa bệnh này, đem lại hiệu quả cao.
Ngoài việc thanh can nhiệt, dưỡng thận âm, tác dụng cầm máu của cỏ mực đã được nghiên cúu tổng kết qua lâm sàng bệnh sôta xuất huyết và trong phòng thí nghiệm, mở ra cách giải thích cơ chế tác dụng cầm máu. Do vậy, cần bảo lưu vai trò của cỏ mực trong phương pháp chữa sốt xuất huyết vì chảy máu là một trong 2 yếu tố gây tử vong lớn nhất trong bệnh này.
Ngoài ra, theo tài liệu của Trung Quốc, cỏ mực đã được dùng để chữa ung thư các loại (phối hợp với những vị khác) như ung thư dạ dày, tử cung, xương, bạch huyết, họng. Trong đó, để chữa ung thư họng, chỉ dùng mỗi vị cỏ mực 50 g tươi vắt nước uống hàng ngày hoặc sắc nước uống
Nguồn: www.voluongcongduc.com