Chùa Hương
LỊCH SỬ
Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù (tọa độ: 20°37′5″B 105°44′49″Đ). Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.[1]
Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên (tọa độ: 20°36′47″B105°44′4″Đ). Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán 南天第一峝 (Nam thiên đệ nhất động) khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.
CHÙA HƯƠNG VÀ VĂN HỌC
Chùa Hương là nguồn gợi hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Việt Nam, trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ là bài hát nói "Hương Sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Trinh, làm từ thế kỷ 19, xưa nay rất được ca ngợi:
- Bầu trời cảnh bụt
- Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
- Kìa non non, nước nước, mây mây
- "Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải!
- Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái
- Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
- ...
- Nhác trông lên ai khéo họa hình
- Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
- Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
- Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây?...
và bài "Chùa hương" của Nguyễn Nhược Pháp, làm vào thế kỷ 20. Bài này đã được ít nhất 2 nhạc sĩ phổ nhạc là Trần Văn Khê và Trung Đức:
- Hôm qua đi chùa hương
- Hoa cỏ mờ hơi sương
- Cùng thầy me em dậy
- Em vấn đầu soi gương
- ...
Trong bài này ngoài những câu thơ nhí nhảnh như trên, còn có nhiều câu tả cảnh Hương sơn rất sinh động: Réo rắt suối đưa quanh/Ven bờ ngọn núi xanh/Nhịp cầu xa nho nhỏ/Cảnh đẹp gần như tranh/Sau núi oản -gà-xôi/Bao nhiêu là khỉ ngồi/Đến núi con voi phục/Thấy đủ cả đầu đuôi/Chùa lấp sau rừng cây/(Thuyền ta đi một ngày)/Lên cửa chùa em thấy/Hơn một trăm ăn mày...
Tản Đà rất mến cảnh chùa Hương, ông làm nhiều câu thơ rất đặc sắc về cảnh và tình ở đây:
- Chùa Hương trời điểm lại trời tô
- Một bức tranh tình trải mấy Thu
- Xuân lại xuân đi không dấu vết
- Ai về ai nhớ vẫn thơm tho.
- Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
- Đá hỏm hang đen tối tối mò.
- Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
- Phàm trần chưa biết, nhắn nhe cho.
Ông còn có 1 bài thơ nổi tiếng về món đặc sản ở chùa Hương:
- Muốn ăn rau sắng chùa Hương
- Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
- Mình đi, ta ở lại nhà
- Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.
Về văn xuôi, có bút ký Trẩy hội Chùa Hương của Phạm Quỳnh...
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương tương truyền là tác giả bài thơ vịnh động Hương Tích như sau[2]:
- Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
- Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
- Người quen cõi Phật quen chân xọc
- Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
- Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
- Con thuyền vô trạo cúi lom khom
- Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
- Rõ khéo Trời già đến dở dom.
- CHÚ THÍCH
2. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền. Nữ sĩ Việt Nam. TP HCM:NXB Văn Nghệ, 2000. Trang 279.