Hạnh không tranh cãi
Ngày đăng: 14:42:54 04-03-2015 . Xem: 5418
Sự thật là vậy:
Thưa đại chúng, ngày xưa khi Đức Thế Tôn còn tại thế, ở Ấn Độ có 62 học thuyết. Trong 62 học thuyết đó, họ tranh cãi nhau về nhiều mặt, từ mặt hiện thực đến mặt siêu hình, từ mặt vật lý đến mặt tâm lý. Lúc bấy giờ, xã hội Ấn Độ cũng có hơn 90 tôn giáo đang sinh hoạt và lẽ đương nhiên mỗi tôn giáo đều có mỗi quan điểm riêng về cách tu tập, cũng như quan điểm riêng về thần linh của mình.
Có một lần, ở trong hội chúng, Đức Phật giảng dạy về nghiệp lực. Đức Phật dạy rằng, trong ba nghiệp thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, thì ý nghiệp là quan trọng nhất. Ý nghiệp có khởi sinh, có suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động, thì mới đưa đến thẩm lự tức là phán xét nên làm hay không nên làm. Sau khi đã phán xét nên làm hay không nên làm, thì ý nghĩ đó mới bắt đầu phát khởi ở nơi thân và ngữ. Như vậy ý nghiệp là chủ đạo khiến cho thân và ngữ hành động. Nếu ý nghiệp duyên vào các phiền não tham, sân, si, thì thân hành động và miệng mới biểu lộ ra chất tham, chất sân, chất si trong đời sống hàng ngày. Nếu ý nghiệp duyên vào các thiện tâm như vô tham, vô sân, vô si ở nơi tâm thức của chúng ta, thì thân và ngữ mới biểu hiện ra cái vô tham, vô sân, vô si đó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bởi vậy, ý nghiệp là quan trọng nhất, nếu ý đã nghĩ đến điều ác thì không có điều ác nào mà thân không làm và ngữ không nói. Nếu ý đã nghĩ đến điều thiện, duyên vào điều thiện nơi tâm, thì không có điều thiện nào mà thân và ngữ không biểu hiện trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Ở trong hội chúng, Đức Thế Tôn đã rống lên tiếng rống sư tử ấy làm khiếp đảm, làm rơi rụng những nhận thức sai lầm về nghiệp. Tiếng rống đó động tới các rừng tu, các trung tâm tu học của các ngoại đạo thời bấy giờ. Có nhiều vị sôi sục đến tranh cãi với Đức Phật. Đức Phật mỉm cười và nói rằng, này hỡi các du sĩ! Các du sĩ nói rằng, trong ba nghiệp thì thân nghiệp là quan trọng nhất, vậy du sĩ hãy chứng minh cho Như lai nghe. Các du sĩ ngoại đạo đó nói như thế này, Đức Cồ Đàm có thấy không? Muốn giết người thì thân giết, thân cầm dao, thân đi tìm kiếm và thân đâm, chém, chứ ý nghiệp đâu? Cho nên, trong ba nghiệp, thân nghiệp là quan trọng hơn hết. Sau khi nghe tu sĩ ngoại đạo trả lời như thế, Ngài mỉm cười, nói rằng, này hỡi các du sĩ! Như Lai cũng nghe trong tôn giáo của các bạn dạy rằng, không được giết người, không được giết hại chúng sinh. Thế thì, một tu sĩ hay một tín đồ của bạn khi ngủ dậy, từ trên giường bước xuống đất đạp kiến chết, đạp những loài sâu bọ chết, nếu cần xét xử người đó có phạm tội hay không phạm tội, phạm giới giết hay không phạm giới giết, thì quý vị phải xét xử như thế nào? Các tu sĩ ngoại đạo trả lời, thưa Đức Cồ Đàm, nếu những tu sĩ hay tín đồ của chúng tôi từ trên giường bước xuống, nếu vô ý mà đạp những loài chúng sinh chết thì tội nhẹ hơn, còn nếu cố ý mà đạp những loài chúng sinh chết thì tội nặng hơn. Đức Phật mỉm cười, Ngài nói, thế thì tôi có nói điều gì khác đâu, tôi nói trong ba nghiệp thân, ngữ, ý, thì ý nghiệp là quan trọng hơn cả, thì bây giờ đây, quý vị cũng nói giống tôi đó thôi, chứ tại sao quý vị lại đến đây để tranh cãi với tôi. Quý vị nói, nếu vô ý mà đạp chết các loài chúng sinh thì tội nhẹ, còn cố ý mà đạp các loài chúng sinh chết thì tội nặng, như vậy, ý nghiệp là chủ ý trong vấn đề tạo nghiệp. Sau đó Đức Phật nói rằng, Như Lai không thích tranh cãi với đời, chỉ có đời mới ưa tranh cãi với Như Lai mà thôi! Người nào sống đời sống không ưa tranh cãi, thì người đó sẽ có hạnh phúc lớn, trong đời sống của người đó vắng bặt tất cả mọi thứ phiền não, mọi sự lo âu, mọi sự tranh giành hơn thua. c Như Lai không ưa tranh cãi với đời, cho nên, sự lo âu, sợ hãi về hơn thua không xảy ra trong đời sống của Như Lai. Như Lai không ưa tranh cãi với đời, cho nên, sự oán đối giữa cuộc đời không có mặt trong đời sống của Như Lai.
Tranh cãi, ưa tranh cãi, tất nhiên sẽ có thua và có hơn, người tranh cãi mà hơn thì tâm sinh kiêu mạn, tâm sinh tự đắc, tâm sinh tự thị. Cái kiêu mạn, cái tự thị, cái tự đắc. Tất cả những cái đó làm cho cuộc đời mình nghèo đi, khổ đau nhiều hơn, buồn chán nhiều hơn. Người tranh cãi mà thua, thì mặc cảm, xấu hổ sẽ xảy ra trong đời sống của người đó. Như vậy, tranh cãi hơn cũng đau khổ, mà tranh cãi thua cũng đau khổ. Muốn thoát ly sự khổ đau, thì phải thực tập hạnh không tranh cãi trong đời sống của chúng ta.
· Vô tranh tam muội:
Thưa đại chúng, trong những vị đại đệ tử của Đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề là một vị đại đệ tử, Ngài đã được Đức Phật ca ngợi là vị đệ tử không thích tranh cãi số một. Vì sao? Bởi vì, Ngài Tu Bồ Đề tu tập, Ngài đạt được vô tranh tam muội, nghĩa là vị đó sống đời sống không tranh cãi, nên, tâm của vị đó luôn luôn an trú ở trong chánh niệm, tỉnh giác. Chỉ có an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì chúng ta mới không bị rơi vào tình trạng tranh cãi. Nếu tâm không an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì sân sẽ khởi lên, khi sân khởi lên thì sẽ dẫn chúng ta đến với sự tranh cãi. Khi sân không khởi lên, thì sự tranh cãi khó mà xuất hiện trong đời sống của chúng ta. Tâm luôn luôn an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì tham không khởi lên, tham không khởi lên, thì khó mà đẩy chúng ta đến với chiến trường tranh cãi. Chúng ta tranh cãi là do quyền lợi, là do danh, là do địa vị, là do quan điểm..., tất cả những tranh cãi đó cũng có gốc rễ từ tham mà ra. Người và những loài vật thấp kém do tham ăn nên tranh cãi nhau về ăn, ăn thế nào cho ngon, nấu như thế nào cho ngon, uống cái gì cho ngon..., tất cả những cái đó đều là sinh hoạt của những loài người mang bản năng thấp kém và đương nhiên, sau cuộc tranh cãi đó, nếu không chế ngự được, không có chánh niệm, tỉnh giác, thì cuộc hội họp đó trở thành ra một bãi chiến trường và sau bãi chiến trường đó, người được, kẻ thua đều là nạn nhân của sự khổ đau.
Do đó, một vị tu tập chánh niệm, tỉnh giác, đạt được vô tránh tam muội, thì tâm của vị đó luôn an trú ở trong chánh niệm, tỉnh giác, cho nên, tham không khởi lên. Tham mà khởi lên, thì đương nhiên có sự tranh cãi, kinh doanh tranh cãi theo kiểu kinh doanh, buôn bán tranh cãi theo kiểu buôn bán, vua, quan thì tranh cãi theo kiểu vua, quan và khi đã tranh cãi thì khổ đau, oán kết, hận thù xảy ra. Hạt giống khổ đau, oán kết, hận thù đó sẽ rơi vào tâm thức của chúng ta, nó lưu trú ở trong tiềm thức của chúng ta, khi có cơ duyên thì nó sẽ bung khởi ra. Bởi vậy, trong hàng đệ tử của Đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề là một vị được Đức Phật ca ngợi là vị có đời sống không tranh cãi, Ngài đã đạt được vô tránh tam muội. Vô tránh tam muội là gì? Vô tránh tam muội tức là vị đó có tâm luôn luôn an trú trong chánh niệm, tỉnh giác. Vị đó ý thức rất rõ mình đang đứng, đang nằm, ngồi, nói năng, tiếp xúc, ý thức rất rõ về mọi động tác của mình, ý thức đó là ý thức của chánh niệm, tỉnh giác, chứ không phải ý thức theo kiểu vọng thức. Ý thức đó có gốc rễ từ vô si, còn nếu chúng ta có ý thức từ nơi si, thì nó sẽ đẩy chúng ta đi tới tà kiến và tranh cãi. Hai người đang còn tranh cãi với nhau, ai cũng đang có ý thức cả, nhưng ý thức đó là ý thức của si, ý thức của bản ngã, cho nên, ai cũng lựa những lời thật cay độc để bắn ra cho đối phương phải gục đầu, gục đầu bằng ngôn ngữ chứ không phải bằng vũ khí, ngôn ngữ cũng là một loại súng bắn người, giết người một cách khủng khiếp.
Thưa đại chúng, ngày hôm nay, chúng ta tu tập chánh niệm, chúng ta quán chiếu thật sâu sắc về hạnh không tranh cãi, nhưng có nhiều người nói rằng, dạ bạch Thầy, chúng ta tu mà không tranh cãi chi hết thì buồn lắm, phải tranh cãi mới thú vị, như một triết gia cận đại đã nói:” Sau sự tranh cãi thì chân lý sẽ bùng vỡ”. Tôi đã trả lời rằng, tôi không phải là triết gia, cũng không phải là đạo sĩ, tôi chỉ là thầy Thái Hòa thôi, nhưng theo tôi :” Sau sự tranh cãi thì khổ đau sẽ bùng vỡ giữa hai bên”. Không phải Đức Phật dạy chúng ta tu tập có nghĩa là chúng ta câm, mà Ngài dạy chúng ta phải nói và phải nói ở trong chánh niệm. Đức Phật đề nghị chúng ta trình bày, nhưng trình bày ở trong chánh niệm, khi người khác trình bày thì chúng ta theo dõi hơi thở và lắng nghe thật sâu. Đức Phật không cấm chúng ta trình bày vấn đề, nhưng vấn đề đó phải thiết thực, giải quyết được khổ đau của chúng ta, còn nếu chúng ta chỉ nêu lên những vấn đề mà đến khi chết rồi chúng ta vẫn không giải quyết được, thì không có ích lợi gì cả.
· Hiện thực từ cuộc sống:
Thưa đại chúng, ngày xưa có mấy vị đệ tử của Đức Phật, họ đến hỏi Đức Phật như thế này:” Dạ bạch Như Lai! Sau khi Ngài chết, Ngài đi về đâu? Thế giới này là hữu cùng hay vô cùng? Thế giới này là hữu biên hay vô biên? “. Ngài cười và nói rằng, này các tôn giả ơi! Như lai nói cho tôn giả như thế này, một người đang bị tên độc bắn vào, việc trước tiên chúng ta phải làm gì để cứu người bị tên độc bắn vào? Có nên hỏi rằng, tên độc này do ai bắn? Tên độc này được bắn từ đâu? Tên độc này bị tẩm thuốc gì mà độc hại như thế? Hay là chúng ta phải tới và nhổ tên độc ra khỏi cơ thể người bị bắn, rồi băng bó vết thương lại cho họ. Vị đệ tử nói rằng, dạ bạch Đức Thế Tôn, chúng ta nên chạy tới ôm người bị tên độc bắn vào, nhổ tên độc ra khỏi cơ thể của họ và bôi thuốc vào cho họ. Đức Phật nói rằng, à cũng vậy, bao nhiêu chuyện siêu hình, bao nhiêu chuyện gì Như lai cũng biết hết, nhưng mà Như lai không nói, Như Lai chỉ nói những gì mang tính hiện thực, giải quyết được vấn đề sinh tử cho chúng sinh. Cũng vậy, một người có lương tâm, muốn chửa trị người bị tên độc, thì việc trước tiên là phải ôm người trúng độc lại, nhổ tên độc ra và làm thuốc cho họ, chứ không phải để người trúng độc quằn quại như vậy, còn mình chỉ quan tâm đến tên độc này làm bằng cái gì, tẩm thuốc gì, bắn từ đâu và ai bắn, chúng ta cứ ngồi tranh cãi nhau như thế, còn nạn nhân thì đau đớn cho đến chết. Cho nên, chuyện không đáng tranh cãi, mà phải giải quyết hiện thực. Giáo pháp của Như Lai là giáo pháp hiện thực, giải quyết triệt để vấn đề khổ đau cho chúng ta, đem lại sự an lạc triệt để cho chúng ta, chứ không phải bàn luận về an lạc, về khổ đau. Giáo pháp của Như Lai chỉ thẳng khổ đau và chỉ thẳng phương pháp diệt khổ.
Thưa đại chúng, giáo pháp của Đức Phật là giáo pháp giải quyết triệt để khổ đau bằng đời sống chứng nghiệm hiện thực, chứ không phải chỉ bằng khái niệm. Do đó, khi quý vị tụng Kinh, đọc Kinh, quý vị sẽ thấy rằng, Đức Phật không hề lý luận, Đức Phật chỉ đưa ra các hiện pháp chứng nghiệm mà Ngài đã đạt được để trao truyền cho chúng ta mà thôi, chứ không phải là một mớ kiến thức hay khái niệm được tích lũy. Do Kinh là những gì Ngài đã chứng nghiệm được và nói ra cho chúng ta, cho nên, không còn có gì để tranh cãi nữa. Do đó, Đức Phật, Ngài luôn luôn an lạc, thảnh thơi, Ngài luôn luôn sống thoải mái là bởi vì, trong đời sống Ngài không còn gì để tranh cãi nữa.
· Năng lượng thực tập:
Bây giờ chúng ta tu tập, chúng ta muốn có đời sống an lạc, hạnh phúc, thoải mái trong đời sống của chúng ta, thì chúng ta phải thực tập hạnh không tranh cãi. Giả như quý vị đi đến đâu mà người khác muốn đặt vấn đề với chúng ta, ưa tranh cãi với chúng ta, nhưng chúng ta chỉ ngồi yên lặng để cho họ nói, ngay cả khi người khác chỉ trích chúng ta, chúng ta cũng chỉ theo dõi hơi thở và mỉm cười thôi, thì lời chỉ trích của đối phương sẽ mất dần hiệu năng. Ngay cả khi họ khen chúng ta, chúng ta cũng ngồi tỉnh bơ và theo dõi hơi thở, thì người khen đó cũng không còn dám khen tiếng thứ ba. Quý vị hãy thực tập đi, quý vị sẽ thấy, người khác khen chúng ta mà không dám khen tiếng thứ ba nữa, chứ đừng nói là chỉ trích và khi đó đối phương sẽ thay đổi thái độ ngay tức khắc. Nhưng khi đối phương khen chúng ta, mà chúng ta cứ ngúc, ngúc, chúng ta ngúc chừng nào thì đối phương sẽ càng nói xảo trá với chúng ta chừng đó. Hoặc khi đối phương chỉ trích chúng ta, nhưng chúng ta không làm chủ được tâm ý, mặt của chúng ta đỏ bừng lên, đó là lúc chúng ta rơi vào cái bẫy của đối phương, khi đó chúng ta bắt đầu tranh cãi, bởi vì đối phương muốn chúng ta như thế, nhưng, nếu chúng ta vượt ra ngoài cái bẫy của đối phương, chúng ta không tranh cãi, thì đối phương sẽ mất dần nhuệ khí.
Điều này quý vị hãy thực tập, quý vị chỉ thực tập trong hai tuần thôi, quý vị sẽ thấy kết quả lạ lùng. Chính tôi đã thực tập điều này và tôi đã thấy được kết quả đó nơi chính bản thân tôi. Khi chúng ta thực tập sâu như vậy rồi, người khác có thích chỉ trích chúng ta, thì họ chỉ trích chúng ta sau lưng thôi, họ không dám chỉ trích trước mặt chúng ta nữa và khi họ như vậy, thì họ chỉ còn nửa gan mà thôi./.
***
Kính ghi từ băng giảng
Học trò
Nhuận Thuần Nguyên
(Pháp thoại T T Thích Thái Hòa giảng cho học chúng chánh niệm, tại Thiền đường Trăng Rằm, Tổ đình Từ Hiếu, mùa Thu, năm 1997)
Thưa đại chúng, ngày xưa khi Đức Thế Tôn còn tại thế, ở Ấn Độ có 62 học thuyết. Trong 62 học thuyết đó, họ tranh cãi nhau về nhiều mặt, từ mặt hiện thực đến mặt siêu hình, từ mặt vật lý đến mặt tâm lý. Lúc bấy giờ, xã hội Ấn Độ cũng có hơn 90 tôn giáo đang sinh hoạt và lẽ đương nhiên mỗi tôn giáo đều có mỗi quan điểm riêng về cách tu tập, cũng như quan điểm riêng về thần linh của mình.
Có một lần, ở trong hội chúng, Đức Phật giảng dạy về nghiệp lực. Đức Phật dạy rằng, trong ba nghiệp thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, thì ý nghiệp là quan trọng nhất. Ý nghiệp có khởi sinh, có suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động, thì mới đưa đến thẩm lự tức là phán xét nên làm hay không nên làm. Sau khi đã phán xét nên làm hay không nên làm, thì ý nghĩ đó mới bắt đầu phát khởi ở nơi thân và ngữ. Như vậy ý nghiệp là chủ đạo khiến cho thân và ngữ hành động. Nếu ý nghiệp duyên vào các phiền não tham, sân, si, thì thân hành động và miệng mới biểu lộ ra chất tham, chất sân, chất si trong đời sống hàng ngày. Nếu ý nghiệp duyên vào các thiện tâm như vô tham, vô sân, vô si ở nơi tâm thức của chúng ta, thì thân và ngữ mới biểu hiện ra cái vô tham, vô sân, vô si đó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bởi vậy, ý nghiệp là quan trọng nhất, nếu ý đã nghĩ đến điều ác thì không có điều ác nào mà thân không làm và ngữ không nói. Nếu ý đã nghĩ đến điều thiện, duyên vào điều thiện nơi tâm, thì không có điều thiện nào mà thân và ngữ không biểu hiện trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Ở trong hội chúng, Đức Thế Tôn đã rống lên tiếng rống sư tử ấy làm khiếp đảm, làm rơi rụng những nhận thức sai lầm về nghiệp. Tiếng rống đó động tới các rừng tu, các trung tâm tu học của các ngoại đạo thời bấy giờ. Có nhiều vị sôi sục đến tranh cãi với Đức Phật. Đức Phật mỉm cười và nói rằng, này hỡi các du sĩ! Các du sĩ nói rằng, trong ba nghiệp thì thân nghiệp là quan trọng nhất, vậy du sĩ hãy chứng minh cho Như lai nghe. Các du sĩ ngoại đạo đó nói như thế này, Đức Cồ Đàm có thấy không? Muốn giết người thì thân giết, thân cầm dao, thân đi tìm kiếm và thân đâm, chém, chứ ý nghiệp đâu? Cho nên, trong ba nghiệp, thân nghiệp là quan trọng hơn hết. Sau khi nghe tu sĩ ngoại đạo trả lời như thế, Ngài mỉm cười, nói rằng, này hỡi các du sĩ! Như Lai cũng nghe trong tôn giáo của các bạn dạy rằng, không được giết người, không được giết hại chúng sinh. Thế thì, một tu sĩ hay một tín đồ của bạn khi ngủ dậy, từ trên giường bước xuống đất đạp kiến chết, đạp những loài sâu bọ chết, nếu cần xét xử người đó có phạm tội hay không phạm tội, phạm giới giết hay không phạm giới giết, thì quý vị phải xét xử như thế nào? Các tu sĩ ngoại đạo trả lời, thưa Đức Cồ Đàm, nếu những tu sĩ hay tín đồ của chúng tôi từ trên giường bước xuống, nếu vô ý mà đạp những loài chúng sinh chết thì tội nhẹ hơn, còn nếu cố ý mà đạp những loài chúng sinh chết thì tội nặng hơn. Đức Phật mỉm cười, Ngài nói, thế thì tôi có nói điều gì khác đâu, tôi nói trong ba nghiệp thân, ngữ, ý, thì ý nghiệp là quan trọng hơn cả, thì bây giờ đây, quý vị cũng nói giống tôi đó thôi, chứ tại sao quý vị lại đến đây để tranh cãi với tôi. Quý vị nói, nếu vô ý mà đạp chết các loài chúng sinh thì tội nhẹ, còn cố ý mà đạp các loài chúng sinh chết thì tội nặng, như vậy, ý nghiệp là chủ ý trong vấn đề tạo nghiệp. Sau đó Đức Phật nói rằng, Như Lai không thích tranh cãi với đời, chỉ có đời mới ưa tranh cãi với Như Lai mà thôi! Người nào sống đời sống không ưa tranh cãi, thì người đó sẽ có hạnh phúc lớn, trong đời sống của người đó vắng bặt tất cả mọi thứ phiền não, mọi sự lo âu, mọi sự tranh giành hơn thua. c Như Lai không ưa tranh cãi với đời, cho nên, sự lo âu, sợ hãi về hơn thua không xảy ra trong đời sống của Như Lai. Như Lai không ưa tranh cãi với đời, cho nên, sự oán đối giữa cuộc đời không có mặt trong đời sống của Như Lai.
Tranh cãi, ưa tranh cãi, tất nhiên sẽ có thua và có hơn, người tranh cãi mà hơn thì tâm sinh kiêu mạn, tâm sinh tự đắc, tâm sinh tự thị. Cái kiêu mạn, cái tự thị, cái tự đắc. Tất cả những cái đó làm cho cuộc đời mình nghèo đi, khổ đau nhiều hơn, buồn chán nhiều hơn. Người tranh cãi mà thua, thì mặc cảm, xấu hổ sẽ xảy ra trong đời sống của người đó. Như vậy, tranh cãi hơn cũng đau khổ, mà tranh cãi thua cũng đau khổ. Muốn thoát ly sự khổ đau, thì phải thực tập hạnh không tranh cãi trong đời sống của chúng ta.
· Vô tranh tam muội:
Thưa đại chúng, trong những vị đại đệ tử của Đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề là một vị đại đệ tử, Ngài đã được Đức Phật ca ngợi là vị đệ tử không thích tranh cãi số một. Vì sao? Bởi vì, Ngài Tu Bồ Đề tu tập, Ngài đạt được vô tranh tam muội, nghĩa là vị đó sống đời sống không tranh cãi, nên, tâm của vị đó luôn luôn an trú ở trong chánh niệm, tỉnh giác. Chỉ có an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì chúng ta mới không bị rơi vào tình trạng tranh cãi. Nếu tâm không an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì sân sẽ khởi lên, khi sân khởi lên thì sẽ dẫn chúng ta đến với sự tranh cãi. Khi sân không khởi lên, thì sự tranh cãi khó mà xuất hiện trong đời sống của chúng ta. Tâm luôn luôn an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì tham không khởi lên, tham không khởi lên, thì khó mà đẩy chúng ta đến với chiến trường tranh cãi. Chúng ta tranh cãi là do quyền lợi, là do danh, là do địa vị, là do quan điểm..., tất cả những tranh cãi đó cũng có gốc rễ từ tham mà ra. Người và những loài vật thấp kém do tham ăn nên tranh cãi nhau về ăn, ăn thế nào cho ngon, nấu như thế nào cho ngon, uống cái gì cho ngon..., tất cả những cái đó đều là sinh hoạt của những loài người mang bản năng thấp kém và đương nhiên, sau cuộc tranh cãi đó, nếu không chế ngự được, không có chánh niệm, tỉnh giác, thì cuộc hội họp đó trở thành ra một bãi chiến trường và sau bãi chiến trường đó, người được, kẻ thua đều là nạn nhân của sự khổ đau.
Do đó, một vị tu tập chánh niệm, tỉnh giác, đạt được vô tránh tam muội, thì tâm của vị đó luôn an trú ở trong chánh niệm, tỉnh giác, cho nên, tham không khởi lên. Tham mà khởi lên, thì đương nhiên có sự tranh cãi, kinh doanh tranh cãi theo kiểu kinh doanh, buôn bán tranh cãi theo kiểu buôn bán, vua, quan thì tranh cãi theo kiểu vua, quan và khi đã tranh cãi thì khổ đau, oán kết, hận thù xảy ra. Hạt giống khổ đau, oán kết, hận thù đó sẽ rơi vào tâm thức của chúng ta, nó lưu trú ở trong tiềm thức của chúng ta, khi có cơ duyên thì nó sẽ bung khởi ra. Bởi vậy, trong hàng đệ tử của Đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề là một vị được Đức Phật ca ngợi là vị có đời sống không tranh cãi, Ngài đã đạt được vô tránh tam muội. Vô tránh tam muội là gì? Vô tránh tam muội tức là vị đó có tâm luôn luôn an trú trong chánh niệm, tỉnh giác. Vị đó ý thức rất rõ mình đang đứng, đang nằm, ngồi, nói năng, tiếp xúc, ý thức rất rõ về mọi động tác của mình, ý thức đó là ý thức của chánh niệm, tỉnh giác, chứ không phải ý thức theo kiểu vọng thức. Ý thức đó có gốc rễ từ vô si, còn nếu chúng ta có ý thức từ nơi si, thì nó sẽ đẩy chúng ta đi tới tà kiến và tranh cãi. Hai người đang còn tranh cãi với nhau, ai cũng đang có ý thức cả, nhưng ý thức đó là ý thức của si, ý thức của bản ngã, cho nên, ai cũng lựa những lời thật cay độc để bắn ra cho đối phương phải gục đầu, gục đầu bằng ngôn ngữ chứ không phải bằng vũ khí, ngôn ngữ cũng là một loại súng bắn người, giết người một cách khủng khiếp.
Thưa đại chúng, ngày hôm nay, chúng ta tu tập chánh niệm, chúng ta quán chiếu thật sâu sắc về hạnh không tranh cãi, nhưng có nhiều người nói rằng, dạ bạch Thầy, chúng ta tu mà không tranh cãi chi hết thì buồn lắm, phải tranh cãi mới thú vị, như một triết gia cận đại đã nói:” Sau sự tranh cãi thì chân lý sẽ bùng vỡ”. Tôi đã trả lời rằng, tôi không phải là triết gia, cũng không phải là đạo sĩ, tôi chỉ là thầy Thái Hòa thôi, nhưng theo tôi :” Sau sự tranh cãi thì khổ đau sẽ bùng vỡ giữa hai bên”. Không phải Đức Phật dạy chúng ta tu tập có nghĩa là chúng ta câm, mà Ngài dạy chúng ta phải nói và phải nói ở trong chánh niệm. Đức Phật đề nghị chúng ta trình bày, nhưng trình bày ở trong chánh niệm, khi người khác trình bày thì chúng ta theo dõi hơi thở và lắng nghe thật sâu. Đức Phật không cấm chúng ta trình bày vấn đề, nhưng vấn đề đó phải thiết thực, giải quyết được khổ đau của chúng ta, còn nếu chúng ta chỉ nêu lên những vấn đề mà đến khi chết rồi chúng ta vẫn không giải quyết được, thì không có ích lợi gì cả.
· Hiện thực từ cuộc sống:
Thưa đại chúng, ngày xưa có mấy vị đệ tử của Đức Phật, họ đến hỏi Đức Phật như thế này:” Dạ bạch Như Lai! Sau khi Ngài chết, Ngài đi về đâu? Thế giới này là hữu cùng hay vô cùng? Thế giới này là hữu biên hay vô biên? “. Ngài cười và nói rằng, này các tôn giả ơi! Như lai nói cho tôn giả như thế này, một người đang bị tên độc bắn vào, việc trước tiên chúng ta phải làm gì để cứu người bị tên độc bắn vào? Có nên hỏi rằng, tên độc này do ai bắn? Tên độc này được bắn từ đâu? Tên độc này bị tẩm thuốc gì mà độc hại như thế? Hay là chúng ta phải tới và nhổ tên độc ra khỏi cơ thể người bị bắn, rồi băng bó vết thương lại cho họ. Vị đệ tử nói rằng, dạ bạch Đức Thế Tôn, chúng ta nên chạy tới ôm người bị tên độc bắn vào, nhổ tên độc ra khỏi cơ thể của họ và bôi thuốc vào cho họ. Đức Phật nói rằng, à cũng vậy, bao nhiêu chuyện siêu hình, bao nhiêu chuyện gì Như lai cũng biết hết, nhưng mà Như lai không nói, Như Lai chỉ nói những gì mang tính hiện thực, giải quyết được vấn đề sinh tử cho chúng sinh. Cũng vậy, một người có lương tâm, muốn chửa trị người bị tên độc, thì việc trước tiên là phải ôm người trúng độc lại, nhổ tên độc ra và làm thuốc cho họ, chứ không phải để người trúng độc quằn quại như vậy, còn mình chỉ quan tâm đến tên độc này làm bằng cái gì, tẩm thuốc gì, bắn từ đâu và ai bắn, chúng ta cứ ngồi tranh cãi nhau như thế, còn nạn nhân thì đau đớn cho đến chết. Cho nên, chuyện không đáng tranh cãi, mà phải giải quyết hiện thực. Giáo pháp của Như Lai là giáo pháp hiện thực, giải quyết triệt để vấn đề khổ đau cho chúng ta, đem lại sự an lạc triệt để cho chúng ta, chứ không phải bàn luận về an lạc, về khổ đau. Giáo pháp của Như Lai chỉ thẳng khổ đau và chỉ thẳng phương pháp diệt khổ.
Thưa đại chúng, giáo pháp của Đức Phật là giáo pháp giải quyết triệt để khổ đau bằng đời sống chứng nghiệm hiện thực, chứ không phải chỉ bằng khái niệm. Do đó, khi quý vị tụng Kinh, đọc Kinh, quý vị sẽ thấy rằng, Đức Phật không hề lý luận, Đức Phật chỉ đưa ra các hiện pháp chứng nghiệm mà Ngài đã đạt được để trao truyền cho chúng ta mà thôi, chứ không phải là một mớ kiến thức hay khái niệm được tích lũy. Do Kinh là những gì Ngài đã chứng nghiệm được và nói ra cho chúng ta, cho nên, không còn có gì để tranh cãi nữa. Do đó, Đức Phật, Ngài luôn luôn an lạc, thảnh thơi, Ngài luôn luôn sống thoải mái là bởi vì, trong đời sống Ngài không còn gì để tranh cãi nữa.
· Năng lượng thực tập:
Bây giờ chúng ta tu tập, chúng ta muốn có đời sống an lạc, hạnh phúc, thoải mái trong đời sống của chúng ta, thì chúng ta phải thực tập hạnh không tranh cãi. Giả như quý vị đi đến đâu mà người khác muốn đặt vấn đề với chúng ta, ưa tranh cãi với chúng ta, nhưng chúng ta chỉ ngồi yên lặng để cho họ nói, ngay cả khi người khác chỉ trích chúng ta, chúng ta cũng chỉ theo dõi hơi thở và mỉm cười thôi, thì lời chỉ trích của đối phương sẽ mất dần hiệu năng. Ngay cả khi họ khen chúng ta, chúng ta cũng ngồi tỉnh bơ và theo dõi hơi thở, thì người khen đó cũng không còn dám khen tiếng thứ ba. Quý vị hãy thực tập đi, quý vị sẽ thấy, người khác khen chúng ta mà không dám khen tiếng thứ ba nữa, chứ đừng nói là chỉ trích và khi đó đối phương sẽ thay đổi thái độ ngay tức khắc. Nhưng khi đối phương khen chúng ta, mà chúng ta cứ ngúc, ngúc, chúng ta ngúc chừng nào thì đối phương sẽ càng nói xảo trá với chúng ta chừng đó. Hoặc khi đối phương chỉ trích chúng ta, nhưng chúng ta không làm chủ được tâm ý, mặt của chúng ta đỏ bừng lên, đó là lúc chúng ta rơi vào cái bẫy của đối phương, khi đó chúng ta bắt đầu tranh cãi, bởi vì đối phương muốn chúng ta như thế, nhưng, nếu chúng ta vượt ra ngoài cái bẫy của đối phương, chúng ta không tranh cãi, thì đối phương sẽ mất dần nhuệ khí.
Điều này quý vị hãy thực tập, quý vị chỉ thực tập trong hai tuần thôi, quý vị sẽ thấy kết quả lạ lùng. Chính tôi đã thực tập điều này và tôi đã thấy được kết quả đó nơi chính bản thân tôi. Khi chúng ta thực tập sâu như vậy rồi, người khác có thích chỉ trích chúng ta, thì họ chỉ trích chúng ta sau lưng thôi, họ không dám chỉ trích trước mặt chúng ta nữa và khi họ như vậy, thì họ chỉ còn nửa gan mà thôi./.
***
Kính ghi từ băng giảng
Học trò
Nhuận Thuần Nguyên
(Pháp thoại T T Thích Thái Hòa giảng cho học chúng chánh niệm, tại Thiền đường Trăng Rằm, Tổ đình Từ Hiếu, mùa Thu, năm 1997)
Các Tin Khác