Huyền thoại chùa Bạch Mã và giấc mơ Hán Minh Đế nhìn thấy Phật quốc thánh địa
Chùa Bạch Mã (hay còn gọi là Hồng Lư (Lô) tự tọa lạc tại phía Tây thành Lạc Dương thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Theo nhiều tài liệu lịch sử ghi chép rằng, chùa Bạch Mã được xây dựng vào khoảng năm 68 Tây lịch, thời gian trị vì của Minh Đế, hiệu Vĩnh Bình thứ 10, thời Hậu hán. Vào thời gian này Hồng Lư tự vốn là nơi chiêu đãi sứ thần các nước chư hầu của nhà Hán, chứ chưa phải là ngôi chùa Phật. “Tự” chính là nơi để các viên quan “hầu cận” vua khi cần đến.
Sự ra đời của ngôi chùa là dấu ấn của bàn chân Phật trên đất Trung Hoa cổ xưa
Vua Minh Đế niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 nhà Hậu Hán, năm 25 – 220. Ông là một vị vua rất sùng đạo, tâm cầu đạo của ông rất mạnh mẽ. Ông từng một sứ đoàn gồm 18 vị đến Thiên Trúc để thỉnh hai Thiền sư người Ấn nổi tiếng lúc bất giờ là ngài Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapama’tanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) đến Trung Hoa hoằng pháp. Từ đây đánh dấu cho sự xuất hiện đạo Phật trên miền đất rộng lớn này.
Trong dân gian có truyền một tích cổ về ngôi chùa như sau:
Hán Minh Đế nằm mơ thấy ở một nơi phong cảnh nên thơ có một vị Thần lấp lánh ánh vàng kim bay đến cung điện của ông. Nhà Vua bèn triệu các cận thần của mình đến để hỏi về ý nghĩa giấc mơ của ông. Đại thần Phó Nghị tâu rằng: “Vào ngày mùng 8 tháng Tư, năm thứ 24 thời Chu Chiêu Vương (tức là năm 971 TCN) triều đại nhà Chu, núi sông chấn động, các dòng sông đều cuộn lũ. Buổi tối có những ánh hào quang ngũ sắc chiếu lấp lánh ở phía trời Tây”.
Hán Minh Đế một trong những người có ảnh hưởng trong quá trình Phật Giáo lưu truyền tại Trung Quốc (Ảnh: tinhhoa)
Vị Thái sử họ Tô suy đoán rằng đây là dấu hiệu đản sinh của một vị đại thánh nhân ở Tây phương Thiên quốc. “Vị đại thánh nhân này xuống nhân gian là để cứu khổ cứu nạn cho con người. Những lời răn dạy của Ngài, sau 1.000 năm, thì có thể truyền vào đất nước chúng ta. Giờ đây, 1.000 năm đã trôi qua và đã đến lúc. Hạ thần nghe nói có một vị thánh nhân ở Tây Vực, được người đời kính trọng gọi là “Phật”, và vì vậy có thể là vị ‘Phật’ mà Bệ hạ nằm mơ thấy”.
Mười tám người họ đã trải qua bao gian truân nguy hiểm, và cuối cùng cũng tới được Đại Nguyệt Thi Quốc ở Thiên Trúc. Nơi đó Phật Pháp truyền bá rộng rãi, chùa viện rất nhiều. Đoàn người này đã thu thập được một số kinh Phật và tượng Phật, đồng thời cũng xin thỉnh hai vị cao tăng Thiên Trúc là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan từ Ấn Độ đến Trung Nguyên giảng Pháp. Năm thứ 10, niên hiệu Vĩnh Bình thời Hán Minh Đế (tức năm 67 SCN), đoàn người mới trở về Lạc Dương, kinh đô của triều đại Đông Hán.
Hán Minh Đế rất hài lòng và long trọng thỉnh mời hai vị cao tăng. Ngài nồng nhiệt mời họ ở lại Hồng Lô Tự, nơi thuộc quan Ngoại giao Thượng thư, và chân thành thỉnh cầu họ dịch bộ kinh Phật mà họ đã mang về.
Năm sau, Hán Minh Đế lại hạ chiếu chỉ xây dựng một tòa tăng viện ở ngoài cửa Ung Môn của Lạc Dương. Chữ “tự” có nghĩa gốc là ‘quan thự’. Tuy nhiên, vì Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan mới lần đầu đến ở “tự”, và họ cũng là khách ngoại quốc, nên nơi ở mới của họ vẫn được gọi là “tự” cho long trọng.
Bắt đầu từ đó, chùa được gọi là “tự” trong tiếng Trung Quốc. Thêm vào đó, có một chú ngựa trắng đã mang về tất cả kinh Phật và tượng Phật, và để ghi nhớ công lao của chú ngựa trắng đó, tu viện mới được đặt tên là ‘Bạch Mã Tự’, hay ‘Chùa Ngựa Trắng’.
Khám phá nét đặc sắc từ khuôn viên tới cấu trúc chùa Bạch Mã Tự
Ngoại vi chùa là một vùng cỏ xanh rộng lớn, bao quanh là rất nhiều cây cối xanh biếc. Khoảng giữa có một con đường đá dẫn thẳng vào cổng chùa. Cổng chùa được thiết kế theo kiểu “Tam quan”.
(Ảnh: chuanoitieng.com)
Ngay cửa chính có tấm biển lớn khắc ba hán tự “Bạch Mã Tự”. Bên phải và bên trái cửa sơn môn có một cặp sư tử đá màu xanh đậm, xoay mặt vào nhau.
Chùa Bạch Mã hiện nay rộng 47.840 thước vuông và có hơn 100 gian điện đường thờ phượng. Các điện lớn được đặt trên một đường trung tâm chạy theo hướng Bắc-Nam, và từ cửa vào trong theo hướng núi theo thứ tự như sau: Thiên Vương điện, Đại Phật điện, Đại Hùng bảo điện, Tiếp Dẫn điện, và Phật điện Bì Lô các.
Đại Phật điện: Ở giữa chính điện để thờ cúng là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi nghiêm trang trên đài sen. Tay phải cầm nhẹ bông hoa, hai bên phải trái của Ngài có hai đệ tử Ca-Diếp và A-Nan đứng hầu, và hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền ngồi đó, với hai thiên nữ đứng hầu đằng sau.
Tại góc Đông Nam của Đại Phật điện, có treo một quả chuông sắt từ triều đại nhà Minh, nặng khoảng 5.525 cân Anh. Người ta nói rằng vào những đêm có gió nhẹ thổi hoặc buổi sáng sớm mát mẻ, tiếng chuông chùa Bạch Mã có thể truyền đi hàng chục dặm, và quả chuông lớn treo trên gác chuông ở con đường phía Đông thành nội cũng có thể cộng hưởng mà vang tiếng cùng với nó. Vì thế cảnh tượng có thể diễn tả như là“Chuông chùa vang vọng Phạm Vương cung, hạ thông Địa phủ chấn u linh”.
Đại Hùng Bảo điện: Nơi thờ cúng ba vị Phật của tam thế là Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà và Phật Dược Sư. Hai bên có 18 vị La Hán chia ra đứng hầu, với tư thế và điệu bộ khác nhau. Các bức tượng La Hán này là rất quý giá, bởi vì chúng được đúc một cách tinh xảo, sử dụng chất liệu lụa và sợi gai dầu có từ thời nhà Nguyên (1271 – 1368).
Tiếp theo Đại Hùng điện là Tiếp Dẫn điện, và cuối cùng là Phật điện Bì Lô Các. Phật điện Bì Lô các được xây dựng vào thời nhà Đường (618- 907), là nơi thờ Phật Bì Lô. Pháp thân thanh tịnh của Phật Thích Ca Mâu Ni cùng Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền đứng bên cạnh. Trên bia đá phía sau Bì Lô các có khắc ‘‘Tứ Thập Nhị Chương Kinh’’.
Phía Đông Bắc và Tây Nam của chùa Bạch Mã là mộ phần của hai vị Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Khoảng 220 thước về phía Đông Nam của ngôi chùa là một tòa tháp cao 26 thước với 13 tầng được xây bằng gạch, gọi là ‘Vân Tháp’. Ban đầu, tháp được đặt tên là Thích Ca Xá Lợi tháp, Kim Phương tháp, hay Bạch Mã Tự tháp. Nó được xây dựng vào thời nhà Đường, sau đó bị phá hủy trong thời nhà Tống, và rồi được trùng tu lại trong thời nhà Kim (1115- 1234).
Những công trình có kiến trúc độc đáo, uy nghiêm trong khuôn viên Bạch Mã tự thường thu hút giới chuyên môn, được ví như kiệt tác kiến trúc cần chiêm ngưỡng đó là: Thanh Lương đài, Dạ Bán chuông, Vân Tháp, Đằng Lan mộ, Đoạn Văn bi…
Bạch Mã Tự là điển hình của kiến trúc chùa chiền Phật giáo Trung Quốc (Ảnh: Frawsy)
Phần Kinh đài: Thanh Lương Đài nằm ở hậu viện, cao khoảng bốn trượng, chu vi hơn năm mươi trượng, đứng ở rìa phía Bắc của nội tự. Đây là nơi chứa kinh của chùa Bạch Mã. Ở giữa đài có Tỳ Lô Các lầu với tượng Phật Tỳ lô Giá Na và tượng Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát.
Phía trước là một pho tượng Phật làm bằng ngọc do Miến Điện dâng. Ở vách phía tây có tượng Đạt Ma Sư Tổ đắp nổi. Ở mảng tường phía bắc có chạm khắc bộ kinh “Tứ thập nhị chương” trên đá.
Bạch Mã tự trải qua ngàn năm tuổi, nhưng kiến trúc và sắc màu của nó vẫn sừng sững bất biến thách thức thời gian. Nó mang theo dấu ấn cho sự khởi phát của Phật pháp gieo duyên miền đất Trung thổ. Dù trải qua bao cuộc binh biến, Bạch Mã tự vẫn hiên ngang kiên cố, như chứng nhân của lịch sử và các giá trị của quá trình giao lưu văn hóa lâu dài giữa 2 quốc gia được xem là nền văn hóa lớn của khu vực: Trung Hoa và Ấn Độ.
Có thể thấy rằng Bạch Mã tự không hổ danh là một ngôi chùa cổ nhất Trung Quốc, là nơi đầu tiên dung chứa kinh Phật. Hơn thế nó là một kiệt tác kiến trúc với sự khéo léo trong bài trí, thiết kế hoàn hảo, tinh xảo của trí tuệ con người thời đó. Đó cũng là kho tàng nghệ thuật kiến trúc bền vững với thời gian.
Theo Tịnh Tâm