Thôn Vĩ Dạ
Ngày đăng: 08:44:46 28-10-2014 . Xem: 14843
Trước đây, Vỹ Dạ là một địa danh nên thơ, một làng nổi tiếng của xứ Huế mộng mơ, một vùng quê hương sản sinh ra nhiều văn nhân, thi sĩ và nghệ sĩ tài hoa, đã từng là đề tài sáng tác cho các thi nhân khắp nước.
Làng Vỹ Dạ thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Từ Đập Đá đi xuống làng Vỹ Dạ, phía bên phải là đồng lúa phì nhiêu, bờ tre xanh ngắt. Đến mùa lúa chín, cánh đồng trông như những đợt sóng vàng, lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời mỗi khi có gió nhẹ lướt qua. Phía bên trái là dòng sông Hương dịu dàng, nước trong xanh, bên kia sông là Cồn Hến.
Về nguồn gốc thôn Vỹ Dạ, trong cuốn “Ô Châu Cận Lục” xuất bản năm 1555 của Dương Văn An có ghi: Huyện Kim Trà (sau này chúa Nguyễn Hoàng đổi lại là huyện Hương Trà) gồm có 60 xã, xã thứ 60 là xã Vỹ Dạ. Nguồn gốc địa danh Vỹ Dạ do hai chữ Vy Dã đọc trại ra. Về ý nghĩa, Vy là lau lách. Trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu.
Dã là đồng nội, là cánh đồng. Thơ cổ có câu:
Cuộc thế mịt mù trong dã mã.
Vy Dã có nghĩa là cánh đồng lau lách.
Làng Vỹ Dạ có nhiều gia đình tộc Nguyễn Phước tức là gia đình dòng dõi vua chúa và cũng là họ ngoại của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Trải dài hơn 1 cây số hai bên đường Thuận An từ Đập Đá qua khỏi Chợ Mới thì tới phường Tây Thượng, đó là nơi cư ngụ của những gia đình tộc Nguyễn Khoa. Mỗi nhà là một biệt thự, có cây cảnh, hòn non bộ, vườn nuôi thú vật, chim chóc, trông rất đẹp mắt. Vỹ Dạ có đình làng, chợ, rạp hát, trường Thế Dạ, nhà thờ Tuy Lý Vương, thường gọi là phủ Ba Cửa, chùa Phước Huệ. Phía trên Vỹ Dạ là Đập Đá dùng để ngăn nước mặn từ sông Hương không cho chảy qua sông Như Ý thuộc làng Thọ Lộc làm hại cho ruộng lúa và cũng để cho việc giao thông với quận Phú Vang được dễ dàng. Phía dưới Vỹ Dạ là chợ Gia Lạc và chùa Ba La Mật. Chùa Ba La Mật cảnh trí thật đẹp, thiện nam tín nữ đến lễ chùa rất đông. Chùa này do cụ Nguyễn Khoa Luận, Bố Chánh Thanh Hóa xây dựng. Ông treo ấn từ quan, xuống tóc đi tu, sau trở thành Viên Giác Đại Sư.
Chữ Ba La Mật còn in dấu
Bóng mặt trời soi tỏ bấy nay.
(Ưng Bình Thúc Giạ)
Vỹ Dạ có phong cảnh nên thơ, có dòng sông xanh, có những thiếu nữ thướt tha duyên dáng, những chàng trai phong nhã, đa tình và là đề tài cảm hứng cho các thi nhân. Bửu Cầm thời còn là thư sinh, yêu vẻ đẹp Vỹ Dạ và thường rủ bạn bè về chơi:
Về thôn Vỹ Dạ với anh đi
Anh dạy cho em biết cảm si
Biết hát Nam ai, hò Mái đẩy
Biết đàn biết địch biết ngâm thi.
Tôn Nữ Hỷ Khương diễn tả tâm trạng chàng trai yêu thương một cô Tôn Nữ thôn Vỹ Dạ:
Ai về Vỹ Dạ khói sương
Làm mờ nhân ảnh người thương thuở nào.
Bửu Tuyển khi về thăm nơi chôn nhau cắt rốn lần cuối cùng, cảm thấy:
Vỹ Dạ quê mình buồn tẻ lạnh
Ngậm ngùi ta nhớ tới đâu đâu.
Hà Thúc Hoài Nhân cũng nhắc đến cô Tôn Nữ thôn Vỹ Dạ mà chàng cảm thấy thương thương khi nàng đi lấy chồng:
Vỹ Dạ còn đâu đêm sáng trăng
Xưa mình chung lối ghé sang thăm
Vườn thơ Tôn Nữ thương thương ấy
Nay đã theo chồng đi biệt tăm.
Hàn Mặc Tử, có một thời ăn cơm tháng ở Vỹ Dạ, đã thầm cảm mến một thiếu nữ yêu kiều Vỹ Dạ:
Sao em không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
Không phải chỉ những nhà thơ trong vùng mà cả những thi sĩ ở xa đến thăm Vỹ Dạ cũng sáng tác nhiều bài ca ngợi địa danh nên thơ này. Nữ sĩ Vân Nương, trong thi đàn Quỳnh Dao, về thăm Vỹ Dạ, điêu tàn khói lửa, đã hồi tưởng thời vàng son của Đế Đô:
Trăng nước đầy vơi Vỹ Dạ thôn
Hỏi đâu hài hán khách vương tôn
Áo chầu năm sắc mây vần vũ
Bến Ngự đôi bờ trúc héo hon
Sương tuyết dẫu phai màu túy uyển
Ngọc châu còn đọng dấu Kim Môn
Ba La chuông gióng canh trường vắng
Hòa tiến thông reo khúc Cổ Bồn.
Thi sĩ Hồ Trọng Khôi nhớ mãi hình ảnh thơ mộng của cô gái Vỹ Dạ yêu kiều, cất tiếng hò trên chiếc thuyền giữa dòng Hương Giang thầm lặng:
Vỹ Dạ ơi! Ta nhớ những giọng hò
Đồng vọng mãi trong chiều buồn viễn xứ.
Và nhà thơ Lê Khắc Lý diễn tả buổi tiễn đưa đau lòng, đầy nước mắt, dưới những hàng cau cao vút tại vườn Vỹ Dạ, bên bờ sông Hương, trong đêm trăng buồn da diết:
Trăng vàng Đập Đá chơi vơi
Hàng cau Vỹ Dạ góp lời tiễn đưa
Ra đi một buổi gió mưa
Trường Tiền ai nón bài thơ nghiêng vành.
Làng Vỹ Dạ thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Từ Đập Đá đi xuống làng Vỹ Dạ, phía bên phải là đồng lúa phì nhiêu, bờ tre xanh ngắt. Đến mùa lúa chín, cánh đồng trông như những đợt sóng vàng, lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời mỗi khi có gió nhẹ lướt qua. Phía bên trái là dòng sông Hương dịu dàng, nước trong xanh, bên kia sông là Cồn Hến.
Về nguồn gốc thôn Vỹ Dạ, trong cuốn “Ô Châu Cận Lục” xuất bản năm 1555 của Dương Văn An có ghi: Huyện Kim Trà (sau này chúa Nguyễn Hoàng đổi lại là huyện Hương Trà) gồm có 60 xã, xã thứ 60 là xã Vỹ Dạ. Nguồn gốc địa danh Vỹ Dạ do hai chữ Vy Dã đọc trại ra. Về ý nghĩa, Vy là lau lách. Trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu.
Dã là đồng nội, là cánh đồng. Thơ cổ có câu:
Cuộc thế mịt mù trong dã mã.
Vy Dã có nghĩa là cánh đồng lau lách.
Làng Vỹ Dạ có nhiều gia đình tộc Nguyễn Phước tức là gia đình dòng dõi vua chúa và cũng là họ ngoại của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Trải dài hơn 1 cây số hai bên đường Thuận An từ Đập Đá qua khỏi Chợ Mới thì tới phường Tây Thượng, đó là nơi cư ngụ của những gia đình tộc Nguyễn Khoa. Mỗi nhà là một biệt thự, có cây cảnh, hòn non bộ, vườn nuôi thú vật, chim chóc, trông rất đẹp mắt. Vỹ Dạ có đình làng, chợ, rạp hát, trường Thế Dạ, nhà thờ Tuy Lý Vương, thường gọi là phủ Ba Cửa, chùa Phước Huệ. Phía trên Vỹ Dạ là Đập Đá dùng để ngăn nước mặn từ sông Hương không cho chảy qua sông Như Ý thuộc làng Thọ Lộc làm hại cho ruộng lúa và cũng để cho việc giao thông với quận Phú Vang được dễ dàng. Phía dưới Vỹ Dạ là chợ Gia Lạc và chùa Ba La Mật. Chùa Ba La Mật cảnh trí thật đẹp, thiện nam tín nữ đến lễ chùa rất đông. Chùa này do cụ Nguyễn Khoa Luận, Bố Chánh Thanh Hóa xây dựng. Ông treo ấn từ quan, xuống tóc đi tu, sau trở thành Viên Giác Đại Sư.
Chữ Ba La Mật còn in dấu
Bóng mặt trời soi tỏ bấy nay.
(Ưng Bình Thúc Giạ)
Vỹ Dạ có phong cảnh nên thơ, có dòng sông xanh, có những thiếu nữ thướt tha duyên dáng, những chàng trai phong nhã, đa tình và là đề tài cảm hứng cho các thi nhân. Bửu Cầm thời còn là thư sinh, yêu vẻ đẹp Vỹ Dạ và thường rủ bạn bè về chơi:
Về thôn Vỹ Dạ với anh đi
Anh dạy cho em biết cảm si
Biết hát Nam ai, hò Mái đẩy
Biết đàn biết địch biết ngâm thi.
Tôn Nữ Hỷ Khương diễn tả tâm trạng chàng trai yêu thương một cô Tôn Nữ thôn Vỹ Dạ:
Ai về Vỹ Dạ khói sương
Làm mờ nhân ảnh người thương thuở nào.
Bửu Tuyển khi về thăm nơi chôn nhau cắt rốn lần cuối cùng, cảm thấy:
Vỹ Dạ quê mình buồn tẻ lạnh
Ngậm ngùi ta nhớ tới đâu đâu.
Hà Thúc Hoài Nhân cũng nhắc đến cô Tôn Nữ thôn Vỹ Dạ mà chàng cảm thấy thương thương khi nàng đi lấy chồng:
Vỹ Dạ còn đâu đêm sáng trăng
Xưa mình chung lối ghé sang thăm
Vườn thơ Tôn Nữ thương thương ấy
Nay đã theo chồng đi biệt tăm.
Hàn Mặc Tử, có một thời ăn cơm tháng ở Vỹ Dạ, đã thầm cảm mến một thiếu nữ yêu kiều Vỹ Dạ:
Sao em không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
Không phải chỉ những nhà thơ trong vùng mà cả những thi sĩ ở xa đến thăm Vỹ Dạ cũng sáng tác nhiều bài ca ngợi địa danh nên thơ này. Nữ sĩ Vân Nương, trong thi đàn Quỳnh Dao, về thăm Vỹ Dạ, điêu tàn khói lửa, đã hồi tưởng thời vàng son của Đế Đô:
Trăng nước đầy vơi Vỹ Dạ thôn
Hỏi đâu hài hán khách vương tôn
Áo chầu năm sắc mây vần vũ
Bến Ngự đôi bờ trúc héo hon
Sương tuyết dẫu phai màu túy uyển
Ngọc châu còn đọng dấu Kim Môn
Ba La chuông gióng canh trường vắng
Hòa tiến thông reo khúc Cổ Bồn.
Thi sĩ Hồ Trọng Khôi nhớ mãi hình ảnh thơ mộng của cô gái Vỹ Dạ yêu kiều, cất tiếng hò trên chiếc thuyền giữa dòng Hương Giang thầm lặng:
Vỹ Dạ ơi! Ta nhớ những giọng hò
Đồng vọng mãi trong chiều buồn viễn xứ.
Và nhà thơ Lê Khắc Lý diễn tả buổi tiễn đưa đau lòng, đầy nước mắt, dưới những hàng cau cao vút tại vườn Vỹ Dạ, bên bờ sông Hương, trong đêm trăng buồn da diết:
Trăng vàng Đập Đá chơi vơi
Hàng cau Vỹ Dạ góp lời tiễn đưa
Ra đi một buổi gió mưa
Trường Tiền ai nón bài thơ nghiêng vành.
Trích trong cuốn “Quê Hương Hoài Niệm” của
Nguyễn Phúc Bửu Diên và Phạm Thiï Hoàng Oanh.
Nguyễn Phúc Bửu Diên và Phạm Thiï Hoàng Oanh.
Các Tin Khác