Luận đại thừa khởi tín Phần 6
Ngày đăng: 06:23:27 03-03-2015 . Xem: 4547
LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN - Phần 6
Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo Luận
Sa môn Thích Thiện Hoa lược dịch và lược giải
***
Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo Luận
Sa môn Thích Thiện Hoa lược dịch và lược giải
***
BÀI THỨ MƯỜI BỐN
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
C. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO (tiếp theo và hết)
II. Nói về hiểu biết và làm (hạnh, hướng) mà phát tâm
CHÁNH VĂN
Phải biết, lối phát tâm này (biết và làm) có phần thắng hơn lối phát tâm trước (Tín phát tâm). Bồ Tát bắt đầu từ Chánh tín (Thập tín) đến đây (Hạnh và Hướng), trải qua gầnmãn một vô số kiếp thứ nhứt, nên đối với Chơn như, các vị này hiện đã hiểu ngộ rất thâm thúy và sự tu hành không còn chấp tướng nữa.
Bồ Tát biết tánh Phật của mình (tâm minh) không có tham lam bỏn xẻn, nên tùy thuận theo tánh Phật, tu hạnh Bố thí Ba la mật (Bố thí rốt ráo). Bồ Tát biết tánh Phật của mình không nhiễm ô, xa lìa các tội lỗi ngũ dục, nên tùy thuận theo tánh Phật, tu pháp trì giới Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không khổ não, xa lìa các sân hận, nên thuận theo tánh Phật, tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không có tướng thân tâm, xa lìa việc giải đãi, nên tùy thuận theo tánh Phật, tu Tinh tấn Ba la mật.Bồ Tát biết tánh Phật của mình thường định, không có tán loạn, nên tùy thuận theo tánh Phật, tu pháp Thiền định Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình sáng suốt, không có vô minh, nên tùy thuận theo tánh Phật, tu Trí huệ Ba la mật.
LƯỢC GIẢI
Trong phần "Phân biệt hành tướng phát tâm đến Đạo", có chia ra ba hạng:
1. Tín phát tâm, tức là viên mãn địa vị Thập tín mà phát tâm.
2. Biết và làm phát tâm, tức là ở địa vị Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng) mà phát tâm.
3. Chứng nhập chơn như phát tâm, tức là ở hàng Thập địa Bồ Tát mà phát tâm.
Đoạn này nói về hàng Tam hiền phát tâm.
Hành giả từ khi phát tâm tu hành, cho đến mãn địa vị Tam hiền, đây là đợt thứ nhất, phải trải qua một "vô số kiếp". Sau khi mãn Tam hiền lên đến Thất địa, hành giả phải trải qua một "vô số kiếp" về đợt thứ hai. Từ Bát địa trở lên quả vị Phật, hành giả phải trải qua một "vô số kiếp" nữa, về đợt thứ ba.
Hành giả phải trải qua ba vô số kiếp như vậy, và trường kỳ kháng chiến với giặc phiền não nội tâm, bao giờ hoàn toàn thắng trận mới được thành Phật. Trong vô số kiếp thứ nhứt, hành giả bị bại trận nhiều mà thắng ít. Đến vô số kiếp thứ hai, là giai đoạn giằng co, hành giả năm ăn năm thua. Bước qua vô số kiếp thứ ba thì hành giả thắng nhiều thua ít.
Vì hạng thứ hai là "Hiểu và Làm mà phát tâm" trước. Từ địa vị Thập tín đến địa vị Tam hiền, vì hành giả tu hành trải qua gần mãn một vô số kiếp, nên ngộ được chơn tâm; nhưng chưa chứng nhập. Tuy nhiên, về việc tu hành, hành giả đã cởi mở rất nhiều những sự nặng nề về phần tu hữu hướng (chấp danh, trước tướng) và bắt đầu về vô tướng, để nhập chơn tâm thanh tịnh.
Bồ Tát biết chơn tâm mình từ bi, hỉ xả, không có tham lam bỏn xẻn, nên tu pháp bố thí Ba la mật, để trừ tâm bỏn xẻn (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh từ bi hỷ xả (dưỡng tánh) để trở lại hiệp với chơn tâm của mình.
Bồ Tát biết chơn tâm mình thanh tịnh, không có các nhiễm ô tội lỗi, nên tu pháp trì giới Ba la mật, để trừ tâm nhiễm ô tội lỗi (tu tâm) và nuôi dưỡng đức tánh thanh tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm của mình.
Bồ Tát biết chơn tâm mình không có sân hận, nên tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật, để đối trị tâm sân hận (tu tâm) và nuôi lớn đức tánh vô sân (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
Bồ Tát biết chơn tâm mình không phiền não giải đãi, nên tu pháp Tinh tấn Ba la mật, để trừ tâm giải đãi (tu tâm) và nuôi dưỡng đức tánh siêng năng (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
Bồ Tát biết chơn tâm mình thường định,không tán loạn, nên tu pháp Thiền định Ba la mật, để trừ tâm tán loạn (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tịch tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
Bồ Tát biết chơn tâm mìnhsáng suốt, không có si mê, nên tu pháp Trí huệ Ba la mật, để trừ tâm si mê (tu tâm) và nuôi dưỡng trí huệ (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm của mình.
Tóm lại, Bồ Tát biết tâm mình không có các điều xấu tệ, như tham lam bỏn xẻn, phá giới nhiễm ô, nóng nảy sân hận, biếng nhác trễ nãi, tán loạn và si mê v.v...mà trái lại, có đủ các đức tánh tốt, như từ bi, hỷ xả, thanh tịnh, không sân si, tinh tấn, thường định và trí huệ v.v...nên tu pháp Lục độ, để diệt trừ Lục tệ, nuôi lớn các đức tánh tốt ở nơi tâm mình. Khi các đức tánh tốt (tánh Phật) được hoàn toàn viên mãn, thì Bồ Tát sẽ thành Phật.
GIẢI DANH TỪ
Chữ "Ba la mật", Tàu dịch là "Đáo bỉ ngạn" nghĩa là đến bờ bên kia, tức là bờ Giác. Song chữ "ba la mật" này cũng có nghĩa là "rốt ráo cùng tận". Như nói "Bố thí ba la mật", nghĩa là bố thí đến cùng tận. Chúng phàm phu khi bố thí, còn chấp Ta là người năng thí (làm ơn). Kia là kẻ thọ thí (chịu ơn); vì còn dính mắc nơi tướng, chấp có nhơn có ngã, nên bố thí mà không được ba la mật. Trái lại, Bồ Tát khi bố thí, hợp với chơn tâm thanh tịnh, không thấy có nhơn có ngã: ta đây là người làm ơn (năng thí). Kia là kẻ thọ ơn (được thí). Nọ là vật bị thí...Vì không dính mắc nơi tướng nên gọi là "Bố thí ba la mật". Năm món "ba la mật" sau, ý nghĩa cũng như thế.
III. Chứng nhập chơn như mà phát tâm
CHÁNH VĂN
Bồ Tát từ Sơ địa cho đến Đẳng giác, đã chứng được Chơn như, cũng gọi là Chứng pháp thân.
Các vị Bồ Tát khi đã chứng nhập Chơn như thì từ trên tâm Chơn như này, khởi ra đại dụng: như trong nhứt niệm mà có thể đi hết cả mười phương thế giới, cúng dường chư Phật, thỉnh Phật chuyển pháp luân và mở đường dẫn dắt, làm lợi ích cho các chúng sanh, mà không cần đến ngôn ngữ. Hoặc vì để độ những chúng sanh căn tánh thấp kém, lo sợ phải trải qua nhiếu kiếp tu hành mới thành đạo, nên Bồ Tát thị hiện mau thành quả Phật. Hoặc vì để độ những chúng sanh biếng nhác trễ nãi, nên Bồ Tát nói: "ta tu hành trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp mới được thành Phật". Các vị Bồ Tát mặc dù thị hiện ra vô số phương tiện như vậy, không thể nghĩ bàn được, song thật ra các vị này trình độ như nhau, và đều trải qua vô số kiếp tu hành, không có kẻ mau, người chậm, vị này hơn, vị kia kém. Các vị Bồ Tát tùy theo mỗi quốc độ, và trình độ thấy nghe, căn tánh sai khác, dục vọng không đồng của mỗi chúng sanh mà thị hiện ra nhiều hạnh (Bồ Tát đa hạnh), phương tiện độ sanh không giống nhau.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói "Chứng nhập chơn như mà phát tâm", tức là Bồ Tát chứng được thể chơn như, rồi phát ra đại dụng của chơn như.
Các vị Bồ Tát từ Sơ đại đến Đẳng giác, đã chứng được chơn như, cũng gọi là chứng pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Rồi từ nơi thể chơn như này phát khởi ra diệu dụng không thể nghĩ bàn, như trong nhứt niệm Bồ Tát có thể đi hết cả mười phương thế giới, cúng dường chư Phật, hoặc thỉnh Phật chuyển pháp luân. Và cũng từ nơi diệu dụng của chơn như, mà Bồ Tát giáo hoá làm lợi ích cho chúng sanh, hoặc không dùng đến văn tự ngữ ngôn.
Có vị Bồ Tát vì muốn khuyến khích những chúng sanh thấp kém, lo sợ cho mình không thể đeo đuổi trải qua nhiều kiếp trường kỳ tu tập, nên thị hiện tu mau thành Phật, để cho chúng sanh ấy khỏi lo sợ; như nàng Long nữ trong Pháp hoa, ngài Quảng ngạch trong kinh Niết bàn, ông Thiện tài trong kinh Hoa nghiêm.
Và có vị Bồ Tát, vì những chúng sanh giải đãi bê tha sự tu hành, nên thị hiện trải qua ba vô số kiếp tu hành, mới được thành Phật, để cho chúng sanh ấy, thấy con đường còn dài, phải siêng năng tu hành; như đức Thích Ca, trải qua ba vô số kiếp mới thành đạo.
Bồ Tát, tùy theo mỗi quốc độ khác nhau, trình độ thấy nghe của chúng sanh không đồng, mà thị hiện ra rất nhiều phương tiện, không thể nghĩ bàn. Bởi thế nên gọi "Bồ Tát đa hạnh".
Nhưng sự thật, về trình độ của các vị Bồ Tát thì đồng nhau, sự phát tâm, chỗ chứng ngộ cũng đồng nhau, và đều trải qua ba vô số kiếp tu hành, không có sự mau chậm hay hơn kém nhau.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, Nhị thừa phát tâm, có 3 tướng vi tế:
1. Chơn tâm, tức là tâm vô phân biệt (thật trí).
2. Phương tiện tâm, tức là tâm tự nhiên làm lợi ích cho các chúng sanh (quyền trí).
3. Nghiệp thức tâm, tức là tâm sanh diệt rất vi tế.
Bồ Tát tu hành đến khi công đức thành tựu viên mãn rồi thì hiện thân cao lớn (báo thân) hơn các thế gian, ở trên cõi trời Sắc cứu cánh. Bồ Tát do nhứt niệm tương ưng (hiệp) với huệ, nên vô minh liền hết, gọi là "được nhứt thế chủng trí". Lúc bấy giờ Bồ Tát tự nhiên có diệu dụng không thể nghĩ bàn, hiện thân khắp mười phương thế giới làm lơi ích cho tất cả chúng sanh.
LƯỢC GIẢI
Các vị Bồ Tát phát tâm vừa nói trên, đều có 3 tướng vi tế như sau:
1. Được thật trí, tức là chơn tâm vô phân biệt.
2. Được quyền trí, tức là Trí phương tiện phân biệt, để làm lợi ích cho các chúng sanh.
3. Dị thục thức, tức là nghiệp thức, sanh diệt rất vi tế.
Bồ Tát tuy được quyền trí và thật trí, nhưng chưa rốt ráo như Phật và vì còn Dị thục thức (Kim Cang đạo hâu Dị thục không) nên còn bị biến dịch sanh tử.
Bồ Tát tu hành, khi công đức được thành tựu viên mãn, đến phút tối hậu, phá sach vô minh vi tế, nhứt niệm hiệp với Bát Nhã huệ, thì được "Nhứt thế chủng trí" gọi là "Chánh biến giác". Lúc bấy giờ Bồ Tát hiện thân Tự thọ dụng (Báo thân) cao lớn ngàn trượng, ở cõi Tự thọ dụng (tự thọ dụng độ), trên đảnh trời sắc giới, chờ đến thời kỳ, sẽ đi bổ xứ làm Phật, như đức Di lặc hiện nay ở cõi trời Đâu suất. Vị Bồ Tát này tự nhiên có diệu dụng, thị hiện mười phương thế giới, làm lợi ích cho các chúng sanh không thể nghĩ bàn.
Tóm lại, từ khi phát tâm tu hành, cầu quả Phật, đến khi được Nhứt thế chủng trí, thành Chánh biến giác là rốt ráo sự phát tâm vậy.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Trong hư không, vô biên, có vô tận thế giới, trong mỗi thế giới có vô số chúng sanh; vì chúng sanh vô số, nên tâm niệm và hành vi cũng khác nhau vô cùng; nếu Bồ Tát đoạn vô minh, không còn tâm tưởng, thì lấy gì để biết tất cả pháp, mà gọi là "Nhứt thế chủng trí"?
Đáp:_ Tất cả cảnh giới vốn là chơn tâm thanh tịnh, không có gì khác. Song vì chúng sanh không như chơn tâm thanh tịnh (xứng tánh) lại khởi ra các tưởng niệm phân biệt, vọng thấy có các cảnh giới sai khác, nên không thể biết được cảnh giới vô tướng thanh tịnh (chơn tâm) biến khắp tất cả, của chư Phật.
Chơn tâm này đã là bản thể hiện ra tất cả pháp và Bồ Tát vì đã chứng được bản thể của tất cả pháp, tất nhiên biết được tất cả pháp, nên gọi là "Nhứt thế chủng trí". Nhờ "Nhứt thế chủng trí" này, mà Bồ Tát tuỳ thuận theo trình độ của các chúng sanh, lập ra các pháp phương tiện, giáo hóa vô số chúng sanh.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này ngài Bồ Tát Mã Minh, lập lời vấn đáp, để giải thích những điều thắc mắc của độc giả.
Thấy đoạn trên nói: Do Bồ Tát trong nhứt niệm tương ưng với Huệ, nên vô minh liền hết, gọi là được "Nhứt thế chủng trí", nên độc giả thắc mắc: Do vô minh mà có tâm tưởng, nhờ tâm tưởng nên mới biết được các sự vật. Nếu vô minh hết, tâm tưởng không còn, thì lấy cái gì để biết tất cả sự vật, mà gọi là "được Nhứt thế chủng trí"?
Bồ Tát giải đáp, đại ý: Tất cả các pháp nguyên là chơn tâm (đó là định lý của Đại thừa). Nếu còn vô minh và tâm tưởng phân biệt, thì cố nhiên phải có năng sở bỉ thử, nên sự phân biệt bị cuộc hạn, tuy biết mà biết không cùng khắp, cái biết ấy chỉ là tưởng niệm mà thôi. Trái lại, nếu vô minh hết, tâm tưởng không còn, tức là hiệp với chơn tâm, mà chơn tâm là bản thể của các pháp, biến khắp tất cả các pháp; cũng như trời đất non sông, mà bể cả đều bao hàm hết thảy. Bởi thế nên hành giả trừ vô minh, diệt hết loạn tưởng chứng nhập chơn tâm, thì mới biết được các pháp một cách rốt ráo, gọi là được "Nhứt thế trí".
Từ chơn tâm này phát ra đại trí dụng, biết rõ tất cả pháp, tùy theo căn cơ của vô số chúng sanh, dùng vô số phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, gọi đó là được "Nhứt thế chủng trí". Chứng được Nhứt thế trí và Nhứt thế chủng trí, gọi là phát minh rốt ráo tâm đại thừa, tức là thành Phật.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Chư Phật đã nghiệp dụng tự nhiên thị hiện khắp tất cả chỗ, làm lợi ích cho các chúng sanh. Nếu chúng sanh nào thấy được thân Phật, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc thấy thần thông biến hoá của Phật, thì đều được lợi ích; tại sao trong thế gian còn có nhiều người không thấy được Phật?
Đáp:_ Pháp thân của chư Phật bình đẳng và khắp tất cả chỗ, tự nhiên làm lợi ích cho các chúng sanh, không dụng tâm hay cố ý. Song cũng tùy theo tâm của chúng sanh mà tự thấy có hiện hay không. Tâm chúng sanh như cái gương, nếu gương bị bụi đóng, thì cảnh vật không hiện; còn tâm chúng sanh bị cấu nhiễm thì Pháp thân không hiện.
LƯỢC GIẢI
Tiếp theo đoạn vấn đáp trên, nghe nói:
"Phật có thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn, bình đẳng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, mà không dụng công hay cố ý": nên độc giả nghi: Nếu như thế, tại sao có chúng sanh được tế độ, có chúng sanh không được tế độ.
Bồ Tát giải thích, đại ý: Phật tuy có Nhứt thế chủng trí và đủ các phương tiện, thần thông diệu dụng, bình đẳng và tự nhiên làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, không dụng công hay cố ý, không phân biệt chủng loại nào. Nhưng chúng sanh có tiếp nhận được hay không là do tâm của họ có thanh tịnh hay không. Như cái gương tuy sáng mà bị bụi bám vào, dù cảnh vật tuy sẵn có, cũng không thể hiện gì ra được. Cũng thế, chúng sanh tâm tánh còn cấu nhiễm, thì chư Phật tuy có diệu dụng không thể nghĩ bàn, bình đẳng phổ độ, song họ cũng không thể thấy được Phật. Tuy không thấy Phật tế độ, nhưng Phật vẫn âm thầm gia hộ. Ví như kẻ mù sống dưới mặt trời, tuy họ không thấy được ánh sáng, nhưng mặt trời vẫn chiếu đến, và họ vẫn nhờ ánh sáng mà sống.
(HẾT PHẦN GIẢI THÍCH)
BÀI THỨ MƯỜI LĂM
CHƯƠNG THỨ TƯ
PHẦM TÍN TÂM, TU HÀNH
CHÁNH VĂN
Chương này là căn cứ vào nhóm chúng sanh chưa vào chánh định mà nói về việc tín tâm tu hành._ Về tín tâm thì ước lược có bốn món, còn tu hành lại có năm món.
A. NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN TÂM
1. Tin căn bản, tức là ưa nghĩ nhớ pháp chơn như.
2. Tin Phật có vô lượng công đức; hành giả thường phải nghĩ tưởng, gần gũi, cung kính và cúng dường chư Phật, để pháp khởi căn lành và nguyện cầu đặng "Nhứt thế trí".
3. Tin Pháp của Phật có lợi ích lớn; hành giả phải thường nhớ tu hành các pháp Ba la mật.
4. Tin Tăng là người chơn chánh tu hành, tự lợi lợi tha, và hành giả thường ưa thân cận các vị Bồ Tát để cầu học cái hạnh chơn thật.
LƯỢC GIẢI
Luận này có năm chương, ba chương đầu là phần lý thuyết, chương thứ tư nói về thật hành, tức là việc khởi tín tâm tu hành, nên chương này rất cần thiết cho hành giả.
Vậy người nào mới có thể khởi tín tâm tu hành?_ Bồ Tát Mã Minh nói: "Phải chúng sanh chưa vào chánh định, mới có thể khởi tín tâm tu hành". Tại sao thế?_ Vì những người tà định (ngoại đạo) không thể khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa; còn những người đã vào chánh định rồi, thì không cần phải nói nữa; duy có người bất định (không nhứt định Đại thừa hay Tiểu thừa) chưa vào chánh định, mới có thể khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa được.
Vậy hành giả phải tin cái gì?_ Có bốn món: Trước nhứt hành giả phải tự tin nơi bản tánh chơn như của mình, tức là tin mình sẵn có tánh Phật (khả năng thành phật), cũng gọi là tin tâm Đại thừa. Tin như thế nào?_ Phải luôn luôn tin tưởng và nghĩ nhớ tâm chơn như của mình, Thể nó lớn, Tín nó to, Dụng nó đại. Đó là điều tin căn bản, còn ba điều tin sau này, cũng do tin căn bản mà ra, tức là tin tam bảo_Tin Phật là người đã chứng được chơn như; tin Pháp là phương pháp để thực hiện chơn như; tin Tăng là người đang thật hành theo chơn như.
Hành giả tin Phật để cầu được nhứt thế trí; tin Pháp để tu hành theo các pháp Ba la mật; tin Tăng để học theo hạnh chơn thật.
CHÁNH VĂN
B. NÓI VỀ NĂM MÔN TU HÀNH
1, Bố thí
2. Trì giới
3. Nhẫn nhục
4. Tinh tấn
5, Chỉ, quán (Định, Huệ)
Thế nào là tu Bố thí?_ Nếu thấy có người đến xin, hành giả có những tài vật gì tùy theo sức mình, đem bố thí cho người, thì sẽ được hai điều lợi ích: tự mình bỏ được lòng tham lam bỏn xẻn, và người thọ thí được vui mừng._ Nếu thấy người bị tai nạn, sợ hãi lo buồn, hành giả tận khả năng của mình cứu giúp, làm cho họ hết lo sợ; gọi là thí vô uý (bố thí cái không sợ)._ Nếu có người đến cầu nghe Phật pháp, hành giả tùy theo sự hiểu biết của mình, phương tiện thuyết pháp; thuyết pháp với tâm niệm tốt đẹp là nghĩ vì tư lợi lợi tha và hồi hướng về đạo Bồ Đề, không vì danh lợi hoặc cầu người cung kính.
LƯỢC GIẢI
Về việc tu hành, hành giả chỉ tu pháp Lục độ thì những hạnh tự lợi và lợi tha đều được đầy đủ.
Bố thí có ba thứ; thí tài, thí pháp và thí không sợ.
1. Thí tài, tức là thí của, có hai thứ của: a) Đem tiền bạc của cải của mình giúp cho người, gọi là thí ngoại tài (của ngoài thân); b) Hy sinh thân mạng để cứu người, như cho máu những người thiếu máu v.v...gọi là thí nội tài (của trong thân). Thí ngoại tài thì hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn về tiền của. Thí nội tài thì hành giả sẽ bớt được tâm chấp ngã và tự ái.
2. Thí pháp, tức là thí phương pháp, có hai phần: a) Chỉ dạy cho người những phương pháp (nghề nghiệp) chơn chánh để tự nuôi sống, gọi là thí về pháp thế gian; b) Dạy người những phương pháp tu hành để giải thoát sanh tử luân hồi, gọi là thí về pháp xuất thế gian. Thí pháp, hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn về pháp.
3. Thí không sợ, tức là thí cái không lo sợ, cũng có hai phần: a) về phần tiêu cực, mình không làm cho người lo sợ, gọi là thí không sợ, b) Về phần tic cực, thấy người bị hoạn nạn, đang lo sợ, mình tận lực cứu giúp, làm cho người hết lo sợ, cũng gọi là thí không sợ. Bố thí không sợ, hành giả sẽ nuôi lớn được lòng từ bi.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Trì giới?_ Không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, không nói lời dâm thọc, nói lời độc ác, không nói dối, nói thêu dệt, không tham sân si, tật đố, dua nịnh, dối trá và tà kiến. Nếu là người xuất gia thì, vì còn dẹp trừ phiền não, nên phải xa lánh chỗ ồn ào, thường ở chỗ thanh vắng, tu hạnh thiểu dục tri túc, hoặc tu hạnh đầu đà v.v...Cho đến một lỗi nhỏ, hành giả cũng phải sanh tâm hổ thẹn, ăn năn sám hối và kiêng sợ; không dám khinh giới luật của Phật. Hành giả phải giữ gìn, đừng để cho người chê bai khinh hiềm, tại mình mà họ tạo tội lỗi.
LƯỢC GIẢI
Giới luật của Phật chế ra, tổng quát có ba phần, gọi là "Tam tụ tịnh giới" (ba phần giới thanh tịnh):
1. Bỏ các điều tội lỗi, gọi là "Nhiếp luật nghi giới";
2. Làm các việc lành, gọi là "Nhiếp thiện pháp giới";
3. Làm lợi ích chúng sanh, gọi là "Nhiêu ích hữu tình giới".
Hành giả tu theo Đại thừa, một mặt là phải giữ ba phần giới này cho thanh tịnh; một mặt nữa là đừng làm những điều sái quấy, để cho thế gian đàm tiếu, mà họ mang lấy tội lỗi.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Nhẫn nhục?_ Nhẫn chịu những điều người ta làm cho mình khổ não trong tâm hành giả cũng không nghĩ tưởng đến việ trả thù; và nhẫn chịu tám hướng gió của trần gian thổi đến: 1. Thạnh lợi, 2. Suy bại, 3. Huỷ báng, 4. Danh dự, 5. Khen, 6. Chê, 7. Khổ, 8. Vui.
LƯỢC GIẢI
Tất cả những hoàn cảnh, làm cho hành giả tạo các tội lỗi, không ngoài tám điều, gọi là "Bát phong" (tam ngọn gió); nhưng tóm lại thì có hai cảnh: thuận và nghịch.
Tài lợi, danh vọng, khen ngợi và vui là bốn ngọn gió thuận cảnh, nó thổi vào biển tâm của hành giả, làm cho nổi lên vô lượng sóng tham lam._ Suy bại, huỷ báng (công kích lỗi người) chê bai (nói xấu) và khổ là bốn ngọn gió nghịch cảnh, nó thổi vào biển tâm của hành giả, làm cho nổi lên vô lượng sóng tham lam._ Suy bại, huỷ báng (công kích lỗi người) chê bai (nói xấu) và khổ là bốn ngọn gió nghịch cảnh, nó thổi vào biển tâm của hành giả, làm cho nổi lên không biết bao nhiêu sóng sân hận.
Hành giả khi gặp các thứ gió, dù thuận hay nghịch, cũng đều phải giữ gìn biển tâm mình cho yên lặng, đừng để các sóng phiền não như tham lam hay sân si v.v...nổi lên. Như thế gọi là tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Tinh tấn?_ Lập chí kiên nhẫn, tu các việc lành, tâm không trễ nãi và không khiếp nhược. Hành giả phải thường nhớ rằng, từ quá khứ nhiều kiếp lâu xa đến nay đã thọ không biết bao nhiêu thân tâm hư giả và chịu không biết bao nỗi khổ lớn lao, đều không có lợi ích gì cả. Bởi thế nên đời nay, ta siêng năng tu các công đức, làm những việc tự lợi lợi tha, để mau xa lìa các khổ.
Lại nữa, nếu người tín tâm tu hành mà bị các nghiệp chướng đời trước làm chướng ngại, hoặc bị các tà ma ác quỉ nhiễu hại, hay bị việc đời ràng buộc, hoặc bị bịnh khổ làm não bức v.v...thì hành giả phải tinh tấn dõng mãnh, ngày đêm sáu thời lễ Phật tụng kinh, thành tâm sám hối, thường hành không bỏ phế; khuyên thỉnh Phật trụ thế và tùy hỷ các việc công đức, để hồi hướng về đạo quả Bồ Đề. Phải làmnhư thế, hành giả mới khỏi các điều chướng ngại và căn lành tăng trưởng.
LƯỢC GIẢI
Tinh tấn là một yếu tố để thành công trên đường đời cũng như trên đường Đạo. Người tu hành nếu thiếu tinh tấn thì không bao giờ thành đạo chứng quả được. Tinh là tinh chuyên một việc; Tấn là tiến tới không dừng.
Hành giả lập chí dõng mãnh, chuyên tu các pháp lành, tâm không khiếp nhược, phải thường nhớ rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay ta thọ biết bao nhiêu thân, chịu biết bao nhiêu khổ, nhưng không làm được điều lợi ích gì cả ! Vậy đời này ta phải tu các công đức, đề xa lìa các tội khổ. Nếu người bị nghiệp chướng đời trước nặng nề, hoặc tà ma ác quỉ nhiễu loạn, hay việc đời ràng buộc, bịnh hoạn làm khổ não, v.v...khó hành đạo được, hành giả phải ngày đêm 6 thời, tụng kinh sám hối, không nên bê trễ, thì các chướng ngại sẽ hết và căn lành tăng trưởng.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Chỉ, Quán?_ "Chỉ" nghĩa là đình chỉ tất cả các vọng tưởng (định), để tuỳ thuận theo quán không (xa ma tha); "Quán" nghĩa là quán sát các tướng nhơn duyên sanh diệt (huệ) để tuỳ thuận theo quán giả (tỳ bác xa na).
Sao gọi là tùy thuận?_ Do hành giả từ từ tu tập, một lần cả Chỉ và Quán, đều không rời nhau, nên gọi là tuỳ thuận.
LƯỢC GIẢI
Tu Chỉ, Quán tức là tu Thiền định và trí huệ. "Chỉ" là đình chỉ các vọng tưởng, tức là Định; "Quán" lá quán sát để thấu rõ chơn lý của các pháp, tức là Huệ. Tu Chỉ, Quán sẽ được Định, Huệ; vì Chỉ,Quán là Nhơn, mà Định, Huệ là Quả.
Trong Lục độ, chia riêng ra Thiền định và Trí huệ, là muốn cho hành giả thấy rõ hành tướng, công dụng và kết quả của hai pháp môn khác nhau. Trong Luận này về chương "Tín tâm tu hành", Bồ Tát Mã Minh cũng dạy tu Lục độ, nhưng hai độ sau lại chung làm một và không gọi tu Định, Huệ mà lại gọi là tu Chỉ,Quán?_ Vì Bồ Tát muốn cho hành giả phải hiểu rằng: Về phần tu nhơn thì hai pháp này rất liên quan với nhau; nghĩa là hành giả phải đồng thời tu cả Chỉ và Quán. Trong Chỉ có Quán, trong Quán có Chỉ.
Thế nào là trong Chỉ có quán?_ Nghĩa là muốn ngăn ngừa đình chỉ không cho các vọng tưởng nổi lên, thì hành giả phải quán sát các pháp là không; bởi các pháp là không, nên hành giả chẳng chấp có, và không khởi tâm tham sân v.v...
Thế nào là trong Quán có Chỉ?_ Nghĩa là hành giả quán sát các pháp đều do nhơn duyên hòa hiệp, sanh không phải thật sanh, mà diệt cũng không phải thật diệt. Vì các pháp do nhơn duyên hoà hiệp giả có, nên hành giả chẳng chấp không, và chẳng sanh các phiền não.
NÓI VỀ TU CHỈ (ĐỊNH)
CHÁNH VĂN
Nếu tu "Chỉ" (định) hành giả phải ở chỗ thanh vắng, ngồi ngay thẳng, tâm chơn chánh, chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc và hư không, chẳng nương đất, nước, gió, lửa; chẳng nương thấy, nghe, hay biết, cho đến các tưởng niệm đều diệt trừ, rồi hành giả dẹp luôn cái "tâm niệm" trừ tưởng niệm nữa.
Do tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, mỗi niệm không sanh, mỗi niệm không diệt, nên hành giả phải không các tưởng niệm và cũng không tưởng cảnh giới ngoài tâm, rốt sau rồi lấy tâm trừ tâm. Nếu tâm vọng tưởng rong ruổi, thì hành giả phải liền đem trở lại chánh niệm._ Phải biết "Chánh niệm" đây, tức là "Duy tâm", không có ngoại cảnh. Và cái tâm này cũng không hình tướng gì có thể tưởng niệm được.
LƯỢC GIẢI
Hành giả tu Định (Chỉ), phải ở chỗ thanh vắng, tránh xa nơi ồn ào náo nhiệt; thân ngồi ngay thẳng, không ngước không cúi; tâm phải chơn chánh, tỉnh táo sáng suốt và tịch tịnh, không phù không trầm; phải thoát ly thân, nghĩa là không nương hơi thở (không sổ tức); không nương hình sắc; phải thoát ly thế giới, không nương hư không, tứ đại; và phải thoát ly tâm, không nương thấy nghe hay biết.
Hành giả phải trừ hết các tưởng niệm rồi cái tâm niệm trừ các tưởng đó cũng dứt luôn; phải biết các pháp từ hồi nào đến giờ, chỉ là nhứt tâm (Duy tâm), không sanh không diệt, không có cảnh giới ngoài tâm. Bởi thế nên tâm vừa vọng động rong rủi theo trần cảnh, thì hành giả phải thâu lại đem về chánh niệm tức là nhứt tâm, gọi là "dùng nhất tâm diệt các vọng tưởng"; rốt sau cái "tâm" này (nhứt tâm) cũng không còn, gọi là "dùng tâm trừ tâm".
Các vị Cổ đức dạy rằng: "Người tham thiền, trong phải thoát ly thân tâm, ngoài xa lìa cảnh giới; nghĩa là phải rời tâm, ý, thức mà tham cứu, phải ra khỏi con đường thánh phàm mà tu học, phải viễn ly các cảnh giới vọng tưởng mà cầu đạo". Tóm lại, là phải phóng xả tất cả.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, trong tất cả thì giờ, khi đi đứng nằm ngồi, tới lui qua lại, làm tất cả việc, hành giả phải thường nhớ phương tiện (phương tiện tùy duyên chỉ), nghĩa là tùy thuận quán sát. Hành giả tu tập như vậy lâu ngày thuần thục, thì tâm được an trụ; do tâm an trụ lần lần mạnh mẽ, nên dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng trưởng, đặng tùy thuận vào chơn như tam muội, mau thành vị Bất thối. Chỉ trừ những người nghiệp chướng sâu dày, nghi ngờ bài báng không tin, hoặc ngã mạn biếng nhác, thì không thể nhập Chơn như tam muội được.
Và hành giả nhờ nương pháp Chơn như tam muội này mà biết được pháp giới duy nhứt; nghĩa là nhận rõ Pháp thân của chư Phật và thân chúng sanh bình đẳng không hai, nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam muội.
Phải biết Chơn như là căn bản của các pháp tam muội; nếu hành giả tu pháp tam muội này, thì lần lần sẽ được vô lượng pháp tam muội.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về "Phương tiện tùy duyên Chỉ"; nghĩa là tu Thiền định không những thường ngồi, mà còn phải phương tiện tùy duyên tu tập, không cho gián đoạn. Khi đi đứng nằm ngồi làm các việc, hành giả cũng phải luôn luôn quán sát tu tập; như thế lâu ngày tâm được an trụ, nhơn đó định lực lần lần mạnh mẽ nên tín tâm tăng tấn, dẹp sâu phiền não, được tùy thuận vào Chơn như tam muội, thành bực Bất thối. Chỉ trừ những người hủy báng không tin, thì không được vào Chơn như tam muội.
Hành giả được Chơn như tam muội rồi, thì biết pháp giới là một, chúng sanh và chư Phật bình đẳng không hai, mê ngộ đồng một tánh, nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam muội (Tam muội đồng nhứt thể).
Chơn như tam muội là căn bản của các pháp tam muội, nên người ngộ được Chơn như tam muội rồi thì sẽ được các pháp tam muội khác.
Chữ "Tam muội", Tàu dịch là Chánh định hay Chánh thọ; Nghĩa là tu Định đã đến lúc thuần thục hay đúng mức.
(Đã nói tu thiền định rồi, tiếp sau đây sẽ nói các việc ma)
P7